Với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bác Hồ và Trung ương Đảng lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công
Trong quá trình hoạt động cách mạng ở nước ngoài, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã cảnh báo: Tương lai có thể trở thành một lò lửa của chiến tranh thế giới... Đúng như Nguyễn Ái Quốc dự đoán, Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ngay sau khi xảy ra chiến tranh thế giới thứ hai, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939), Hội nghị Trung ương lần thứ 7 của Đảng (11/1940) đã phân tích tình hình trong và ngoài nước, các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trước mắt, quyết định điều chỉnh về đường lối và phương pháp cách mạng, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung mũi nhọn vào chống bọn đế quốc và tay sai.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (10 đến 19/5/1941), Bác Hồ và Trung ương Đảng đánh giá, thời cơ nghìn năm có một sẽ đến. Đảng ta cần thay đổi chiến lược cách mạng, tập hợp lực lượng toàn dân tộc thành Mặt trận cứu quốc, lấy công nông làm lực lượng cơ bản, vũ trang quần chúng, chờ khi các nước phátxít thất bại thì lập tức khởi nghĩa giải phóng đất nước, giành độc lập cho Tổ quốc. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, vạch ra những chính sách cụ thể, sát hợp nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Bác Hồ và Trung ương Đảng đã tận dụng triệt để những thuận lợi cơ bản: phátxít Nhật hoang mang; chính phủ Trần Trọng Kim yếu thế; quân đồng minh chưa vào nước ta; quân Pháp có tham vọng quay trở lại Việt Nam, nhưng chưa có lực lượng. Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945) là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa chỉ đạo hành động, chuẩn bị mọi lực lượng để đón thời cơ khởi nghĩa một cách chủ động đã được Đảng ta sớm đề ra phù hợp với tình hình lúc đó.
Tháng 8/1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, phátxít Đức-Italy đầu hàng đồng minh. Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông - chủ lực của phátxít Nhật. Thời cơ thuận lợi để giành chính quyền đã đến. Từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Bác Hồ khẳng định: Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Ngay trong đêm ngày 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1, phát lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16 và 17/8/1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.”
Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8). Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội gây tiếng vang lớn trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi ở Hà Nội đã góp phần làm tan rã nhanh chóng toàn bộ hệ thống bộ máy chính quyền tay sai của Nhật trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, 25 triệu đồng bào ta, với tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta" đã nhất tề vùng lên giành chính quyền trong 15 ngày, từ 13 đến 28/8/1945. Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân.
Những chỉ đạo của Bác Hồ về thời cơ và đường lối cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Từ sự điều chỉnh đến sự hoàn chỉnh đường lối là cả một quá trình: Hơn một thập kỷ đấu tranh cách mạng đầy cam go và phức tạp từ nhiều phía, Hồ Chí Minh đã kiên trì, nhẫn nại và biết chờ đợi, chịu đựng mọi thử thách... để đạt được sự nhất trí cao giữa lãnh tụ với Ban Chấp hành Trung ương và với toàn Đảng.
Tư tưởng về giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành đường lối chung của toàn Đảng chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, về lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Sự trưởng thành đó bảo đảm cho Đảng vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng, kể cả những khi lãnh tụ tạm thời vắng mặt. Có thể khẳng định rằng, việc khởi xướng, phát triển, và hoàn chỉnh quá trình điều chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc - nguyên nhân hàng đầu bảo đảm đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng, toàn dân dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945) - công lao trước hết thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đem lại niềm tin tự giải phóng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc."
Lãnh đạo toàn dân làm Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Đảng ta lúc đó chỉ có 5.000 đảng viên và phải hoạt động bí mật, điều kiện thông tin liên lạc để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn quốc hết sức khó khăn. Nhưng nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng và Bác Hồ, sự chủ động, sáng tạo của tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và nhân dân ở các địa phương nên khởi nghĩa đã nổ ra đồng loạt và có sự phối hợp từng vùng, từng miền và trên phạm vi cả nước. Đó là một bài học hết sức quý báu về sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng Đảng trong bất cứ thời kỳ cách mạng nào.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã định hướng cho chủ trương xây dựng lực lượng, phương thức đấu tranh, phương thức khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám:
- Về xây dựng lực lượng cách mạng: Hồ Chí Minh coi trọng vai trò của giai cấp công nhân, nông dân và liên minh công nông, nhưng Người không xem nhẹ vai trò cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác. Người từng nói, công nông là gốc cách mạng. Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn cách mạng của công nông. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông và phú nông, trung tiểu địa chủ, tư sản chưa rõ mặt phản cách mạng, chí ít làm cho họ trung lập... Người lại nói: "Việc cứu nước là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, có tài năng góp tài năng."
Điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong chuẩn bị khởi nghĩa là chú trọng xây dựng cả hai lực lượng: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Trên cơ sở xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang; cơ sở chính trị mở rộng đến đâu, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang đến đó. Ngay khi vừa về Pác Bó, cùng với việc trực tiếp chỉ đạo xây dựng phong trào Việt Minh ở Cao Bằng, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một số hội viên cứu quốc gửi ra nước ngoài đào tạo về quân sự.
Cũng thời gian này, Người biên soạn và biên dịch một loạt tài liệu để huấn luyện quân sự như: Cách đánh du kích, kinh nghiệm du kích Tàu, kinh nghiệm du kích Pháp, kinh nghiệm du kích Nga, phép dùng binh của Tôn Tử, mười điều kỷ luật, cách huấn luyện cán bộ quân sự...
Người đã Chỉ thị thành lập đội vũ trang chính quy mang tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Bản chỉ thị nêu rõ lý do phải tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, phải vũ trang toàn dân; nêu rõ phương châm tác chiến, phối hợp tác chiến, chiến thuật, mối quan hệ giữa đội chủ lực với vũ trang địa phương... Chỉ với những tài liệu và chỉ thị, với cách thức tổ chức, huấn luyện và sự quan tâm thiết thực của Hồ Chí Minh đối với cán bộ, chiến sĩ trong thời gian này cũng đủ nói lên rằng, Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu rõ những quan điểm quân sự của Đảng ta một cách có hệ thống, là người đặt cơ sở cho lý luận quân sự hiện đại Việt Nam. Hồ Chí Minh là người sáng lập lực lượng vũ trang cách mạng, là người cha thân yêu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đoàn kết toàn dân là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, nhất thiết phải mở rộng đoàn kết dân tộc, nhất thiết phải thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất. Đây chính là tư tưởng, sáng kiến của Người: Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh đã được thành lập và đã đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân, trong một thời gian ngắn, Việt Minh đã phát triển thành một tổ chức rộng lớn, mạnh mẽ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận xét rằng: "Cái vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã tìm ra những hình thức tốt nhất để tổ chức nhân dân."
- Đề cao tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, phát huy nội lực nhưng Hồ Chí Minh lại tìm mọi khả năng tranh thủ ngoại lực, tranh thủ Đồng minh. Những hoạt động thực tiễn của Người (từ trung tuần tháng 8/1942 đến cuối tháng 9/1944) trong điều kiện đầy cạm bẫy và phức tạp trên đường đi liên lạc với các lực lượng người Việt Nam ở ngoài nước và lực lượng Đồng minh. ở đây, Người đã thực hiện sáng tạo lời chỉ dẫn của Lênin và góp một cống hiến quý giá về chủ trương thêm bạn, bớt thù trong Cách mạng tháng Tám. Đó là: Chỉ có thể thắng được kẻ địch mạnh hơn bằng một sự nỗ lực hết sức lớn và với điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách tỉ mỉ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo, bất cứ một "rạn nứt" bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù... Cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để nắm cho được một bạn đồng minh mạnh về số lượng; dù đó là một bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, ít vững chắc và ít đáng tin cậy. Do vậy, Hồ Chí Minh đã "tranh thủ" được sự giúp đỡ của Đồng minh. Cho nên đến những ngày đầu tháng 5/1945, quân và dân ta vẫn còn nhận được một số thuốc men, vũ khí để đánh phátxít Nhật.
Những bài học kinh nghiệm đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay
Thời cơ của cuộc Cách mạng tháng Tám (1945) xuất hiện vào lúc cao trào chống Nhật cứu nước lên đến đỉnh cao, khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc, bọn phátxít Nhật đã bị bại trận, chính quyền bù nhìn tay sai tan rã, quân Anh, Mỹ và chư hầu chưa kịp đến. Chính lúc đó, Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của lãnh tụ Hồ Chí Minh - kết tinh quyết tâm Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương (13 đến 15/8/1945) và Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (16 và 17/8/1945) đã phát động "Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta."
Cách mạng tháng Tám nổ ra đúng lúc, đúng nơi, và thành công nhanh chóng. Đó là cả một nghệ thuật phân tích và dự báo chính xác, nắm bắt thời cơ tài giỏi của Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với bản "Tuyên ngôn độc lập" bất hủ, Người đã khai sinh ra chế độ mới, khai sinh ra chính quyền mới - chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc mà ý nghĩa của những tư tưởng đó vẫn còn giá trị lâu dài. Nhiều bài học kinh nghiệm trong Cách mạng tháng Tám của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay:
- Bài học về sự kiên quyết điều chỉnh đường lối cách mạng khi cần, trên cơ sở phương hướng chiến lược cách mạng đúng đắn, mục tiêu cách mạng nhất quán. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế.
- Bài học về tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn toàn dân tham gia sự nghiệp cách mạng, tham gia sự nghiệp xây dựng đất nước. Nâng cao ý thức tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của dân tộc, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế; thực hiện có hiệu quả chủ trương Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, độc lập và phát triển.
- Bài học về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.