Sáng 27/5, bắt đầu phần tranh luận tại phiên tòa xét xử vụ án Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm, đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội đã đọc bản luận tội và đề nghị mức án đối với bị cáo Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm.
Cụ thể, Nguyễn Đức Kiên bị đề nghị mức án từ 18-24 tháng tù về tội “Kinh doanh trái phép” và xử phạt từ 25-30 triệu đồng, tuyên tịch thu xung quỹ số tiền kinh doanh trái phép; đề nghị mức án từ 4-5 năm tù về tội "Trốn thuế," truy thu hơn 24 tỷ đồng và đề nghị Tòa tuyên phạt từ 2 đến 3 lần số tiền thuế đã trốn; đề nghị phạt từ 16-18 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; từ 14-15 năm tù về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.”
Tổng hợp hình phạt chung đề nghị mức án đối với bị cáo Kiên là 30 năm tù. Đồng thời, Viện Kiểm sát cũng đề nghị Tòa tuyên cấm bị cáo Nguyễn Đức Kiên đảm nhiệm các chức vụ có liên quan từ 3 đến 5 năm.
Đối với các bị cáo còn lại, Viện Kiểm sát đã đề nghị mức án đối với bị cáo Trần Ngọc Thanh là từ 9-10 năm tù, Nguyễn Thị Hải Yến từ 7-8 năm tù về cùng tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Nhóm bị cáo bị truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” gồm Lý Xuân Hải bị đề nghị từ 12-14 năm tù và hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm điều hành, quản lý tổ chức tín dụng; Lê Vũ Kỳ từ 7-8 năm tù; Trịnh Kim Quang từ 6-7 năm tù; Phạm Trung Cang và Huỳnh Quang Tuấn cùng bị đề nghị mức án 3 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm.
Trong bản luận tội, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, việc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm về các tội danh như trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Về hành vi kinh doanh trái phép, mặc dù tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, Nguyễn Đức Kiên cho rằng bị cáo không kinh doanh vàng mà kinh doanh giá vàng. Song, Viện Kiểm sát cho rằng có đủ cơ sở kết luận, hành vi kinh doanh trạng thái vàng và kinh doanh cổ phiếu đã phạm vào tội “Kinh doanh trái phép.”
Về hành vi trốn thuế, việc chuyển hồ sơ ủy thác là trá hình nhằm chuyển lợi nhuận sang cho Hương.
Về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tại tòa, bị cáo Kiên cho rằng Hòa Phát đã biết thông tin và đã có đề nghị phong tỏa. Nhưng, Viện Kiểm sát xác định, lời khai không có căn cứ vì trước khi thương thảo và ký hợp đồng, Hòa Phát không biết có cổ phần bị thế chấp. Biên bản họp Hội đồng quản trị được xác định không đúng quy định.
Về hành vi Cố ý làm trái quy định của Nhà nước, tại tòa các bị cáo cho rằng, việc ủy thác là đúng quy định; còn Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt tiền của ACB thì Vietinbank phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, theo quy định ngân hàng, không có quy định nào áp dụng cho việc ủy thác cho cá nhân đi gửi tiền. Trong khi Ngân hàng Nhà nước chưa có hướng dẫn thì ACB đã ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền.
Đối với bị cáo Nguyễn Đức Kiên, trong 3 tội danh, bị cáo đều là người chủ mưu, chủ đạo, giữ vai trò chính, với số tiền đặc biệt lớn. Với tội cố ý làm trái, Nguyễn Đức Kiên có vai trò quan trọng trong Ngân hàng ACB. Kiên cũng thừa nhận phần lớn các ý kiến của Kiên sau đó đều trở thành Nghị quyết của ACB. Sau năm 2008, dù không còn giữ chức vụ song vẫn chi phối hoạt động ACB. Nhiều Nghị quyết của ACB là ý kiến cá nhân của Nguyễn Đức Kiên.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đều chối tội, ngoan cố không thành khẩn khai báo. Viện Kiểm sát xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian dài.
Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Thị Hải Yến giúp sức đắc lực cho bị cáo Kiên. Số tiền đã được khắc phục, thực hiện do sự chỉ đạo của bị cáo Kiên nên có thể xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất trong khung.
Với Lý Xuân Hải, vì muốn bảo vệ lợi ích của ACB, theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Kiên nên ra chủ trương ủy thác sai, mua cổ phiếu sai quy định gây thiệt hại hơn 1.400 tỷ đồng. Quá trình điều tra chưa ăn năn hối cải nên cần phải xử phạt nghiêm khắc.
Đối với bị cáo Lê Vũ Kỳ, theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Kiên đã ký vào chủ trương cho nhân viên ủy thác và cấp tín dụng mua cổ phiếu, gây thiệt hại hơn 1.400 tỷ đồng của ACB. Xem xét giảm nhẹ thấp nhất trong khung truy tố.
Còn với bị cáo Trịnh Kim Quang, cũng theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Kiên thực hiện sai quy định pháp luật. Có thể giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo song vẫn phải xử lý nghiêm.
Về bị cáo Phạm Trung Cang, quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi nên có thể xem xét giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất của khung truy tố, không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội.
Đối với bị cáo Huỳnh Quang Tuấn, việc ủy thác nhân viên gửi tiền ảnh hưởng chính sách tiền tệ của Nhà nước gây thiệt hại 718 tỷ đồng. Tuy nhiên hành vi của bị cáo có mức độ nên có thể xem xét giảm nhẹ mức thấp nhất của khung hình phạt và không cần thiết phải cách ly.
Đối với bị cáo Trần Xuân Giá, đang được đình chỉ vụ án do mắc bệnh hiểm nghèo, nên Viện Kiểm sát không xem xét hình thức xử phạt./.