Kể từ khi trẻ sơ sinh đầu tiên được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ốngnghiệm cất tiếng khóc chào đời cách đây 34 năm tại Anh, đến nay trên thế giới đãcó khoảng 5 triệu người được sinh ra bằng phương pháp khoa học này.
Theo số liệu công bố ngày 1/7 tại Hội nghị thường niên của Viện Sinh sản và phôihọc châu Âu (ESHRE) diễn ra ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ), mỗi năm có khoảng 350.000trẻ sơ sinh được thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, chiếm 0,3% trong số 130 triệutrẻ được sinh ra mỗi năm trên toàn cầu.
Theo ông David Adamson, Chủ tịch Ủy banGiám sát công nghệ hỗ trợ sinh sản quốc tế (ICMART), phương pháp thụ tinh nhântạo này đã mang lại niềm vui cho hàng triệu cặp vợ chồng hiếm muộn.
Cũng theo thống kê, hiện mỗi năm trên thế giới có khoảng 1,5 triệu ca thụ tinhtrong ống nghiệm và hơn 30% số trường hợp được thực hiện tại châu Âu.
Tỷ lệthành công của phương pháp thụ tinh nhân tạo này khá ổn định - khoảng 30% phôisau khi được cấy vào tử cung người mẹ phát triển thành bào thai.
Theo ESHRE, xuhướng hiện nay tại châu Âu là giảm số lượng phôi cấy vào tử cung trong mỗi lầnthụ tinh nhân tạo để giảm các nguy cơ thai nghén cho bà mẹ và tăng trọng lượngcủa mỗi trẻ sơ sinh khi chào đời.
Thụ tinh trong ống nghiệm là một phương pháp thụ tinh theo đó trứng được thụtinh bằng tinh trùng ở bên ngoài cơ thể người mẹ - trong ống nghiệm.
Đây là mộtphương pháp được áp dụng sau khi các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thất bại, đượcáp dụng cho những cặp vợ chồng hay những người phụ nữ đang ở độ tuổi sinh sản,vì bất kỳ lý do gì đó, tinh trùng không thể thụ tinh cho trứng bằng phương pháptự nhiên.
Sự rụng trứng được điều khiển bởi hormone và trứng đã thụ tinh sẽ được đưa vàotử cung. Người được thụ tinh được tiêm thuốc gonadotrophin để kích thích trứnglớn.
Việc này được thực hiện dưới sự kiểm soát chặt chẽ về y tế, sử dụng lượnghoócmôn vừa đủ, sau đó sẽ bác sĩ siêu âm để phát hiện những trứng lớn. Khi trứnglớn, chúng sẽ được hút ra khi đã chín nhưng chưa tự phóng.
Hormone gondotropins,loại hormone gây tắt kinh nguyệt của người được dùng để kích thích rụng trứng.36 giờ sau, bào tương (chứa tế bào trứng) sẽ được lấy ra bằng đường âm đạo (bằngkim và siêu âm). Các trứng trong bào tương sẽ được thụ tinh với tinh trùng đãlấy từ trước, và sau đó đưa lại vào tử cung người phụ nữ và phát triển thành bàothai.
Louise Brown là đứa bé đầu tiên ra đời bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệmvào ngày 25/7/1978 tại Anh.
Robert G. Edwards, nhà y sinh học người Anh pháttriển thành công phương pháp này, đã được trao Giải Nobel Y học năm 2010./.
Theo số liệu công bố ngày 1/7 tại Hội nghị thường niên của Viện Sinh sản và phôihọc châu Âu (ESHRE) diễn ra ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ), mỗi năm có khoảng 350.000trẻ sơ sinh được thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, chiếm 0,3% trong số 130 triệutrẻ được sinh ra mỗi năm trên toàn cầu.
Theo ông David Adamson, Chủ tịch Ủy banGiám sát công nghệ hỗ trợ sinh sản quốc tế (ICMART), phương pháp thụ tinh nhântạo này đã mang lại niềm vui cho hàng triệu cặp vợ chồng hiếm muộn.
Cũng theo thống kê, hiện mỗi năm trên thế giới có khoảng 1,5 triệu ca thụ tinhtrong ống nghiệm và hơn 30% số trường hợp được thực hiện tại châu Âu.
Tỷ lệthành công của phương pháp thụ tinh nhân tạo này khá ổn định - khoảng 30% phôisau khi được cấy vào tử cung người mẹ phát triển thành bào thai.
Theo ESHRE, xuhướng hiện nay tại châu Âu là giảm số lượng phôi cấy vào tử cung trong mỗi lầnthụ tinh nhân tạo để giảm các nguy cơ thai nghén cho bà mẹ và tăng trọng lượngcủa mỗi trẻ sơ sinh khi chào đời.
Thụ tinh trong ống nghiệm là một phương pháp thụ tinh theo đó trứng được thụtinh bằng tinh trùng ở bên ngoài cơ thể người mẹ - trong ống nghiệm.
Đây là mộtphương pháp được áp dụng sau khi các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thất bại, đượcáp dụng cho những cặp vợ chồng hay những người phụ nữ đang ở độ tuổi sinh sản,vì bất kỳ lý do gì đó, tinh trùng không thể thụ tinh cho trứng bằng phương pháptự nhiên.
Sự rụng trứng được điều khiển bởi hormone và trứng đã thụ tinh sẽ được đưa vàotử cung. Người được thụ tinh được tiêm thuốc gonadotrophin để kích thích trứnglớn.
Việc này được thực hiện dưới sự kiểm soát chặt chẽ về y tế, sử dụng lượnghoócmôn vừa đủ, sau đó sẽ bác sĩ siêu âm để phát hiện những trứng lớn. Khi trứnglớn, chúng sẽ được hút ra khi đã chín nhưng chưa tự phóng.
Hormone gondotropins,loại hormone gây tắt kinh nguyệt của người được dùng để kích thích rụng trứng.36 giờ sau, bào tương (chứa tế bào trứng) sẽ được lấy ra bằng đường âm đạo (bằngkim và siêu âm). Các trứng trong bào tương sẽ được thụ tinh với tinh trùng đãlấy từ trước, và sau đó đưa lại vào tử cung người phụ nữ và phát triển thành bàothai.
Louise Brown là đứa bé đầu tiên ra đời bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệmvào ngày 25/7/1978 tại Anh.
Robert G. Edwards, nhà y sinh học người Anh pháttriển thành công phương pháp này, đã được trao Giải Nobel Y học năm 2010./.
(TTXVN)