Hàng Bạc được coi là khu phố đắt nhất trong 36 phố phường ở Hà Nội. Trước kia, phố Hàng Bạc có 3 nghề khác nhau gồm nghề đúc bạc nén, nghề kim hoàn và nghề đổi tiền.
Ba nghề này xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê (tỉnh Hưng Yên), làng Ðồng Xâm (tỉnh Thái Bình) và làng Định Công.
Vào thế kỷ 15, quan thượng thư bộ lại Lưu Xuân Tín - vốn người làng Châu Khê ( Hưng Yên) được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay) bởi lúc bấy giờ bạc nén, vàng thỏi được dùng làm đơn vị tiền tệ để trao đổi. Ông đã đưa thợ ở Châu Khê tới kinh thành lập xưởng đúc bạc. Sau một thời gian, cùng với nghề đúc bạc, thợ Châu Khê làm cả trang trí vàng bạc.
Ðến đầu thế kỷ 19, dưới triều Nguyễn, xưởng đúc bạc nén được chuyển vào Huế (miền Trung). Phần lớn thợ Châu Khê vẫn ở tại Thăng Long làm nghề kim hoàn, họ lập thành phường thợ tại phố Hàng Bạc ngày nay. Lúc này ở phố Hàng Bạc còn có thợ vàng bạc ở hai làng nghề Ðịnh Công và Ðồng Xâm tới lập nghiệp. Từ đây phố Hàng Bạc ra đời và là nơi chuyên chế tác các đồ trang sức, cung cấp vàng bạc tại đất kinh kỳ.
Song song với việc sản xuất, buôn bán người ta còn đổi bạc nén lấy bạc vụn. Vì vậy, vào thời Pháp thuộc, phố này còn có tên tiếng Pháp là Rue de changeurs (phố Ðổi Bạc).
Với đồ nghề thủ công, người thợ kim hoàn ở phố Hàng Bạc đã làm ra nhiều sản phẩm vàng bạc tinh xảo, nhất là đồ trang sức. Trong thuật ngữ chuyên môn, người ta phân biệt các sản phẩm này thành hai loại là đồ trơn (không chạm khắc) như nhẫn, khuyên tai cho phụ nữ, vòng xuyến cho phụ nữ hoặc trẻ em và đồ trạm (có chạm, khắc).
Người thợ kim hoàn ở Hàng Bạc thường chạm khắc trên các đồ vàng bạc theo các mẫu trang trí nhất định. Tứ linh (long, ly - còn gọi là lân, quy, phượng) là loại mẫu phổ biến nhất. Riêng hình tượng long (con rồng) đã được bàn tay khéo léo của nghệ nhân thể hiện với nhiều chủ đề khác nhau và các mẫu trang trí khác nhau như Bát vật (tám con vật), Bát bảo (tám vật quý), Bát quả (tám loại trái cây)... cũng được chạm khắc tinh xảo trên đĩa, mâm bằng vàng, bạc.
Trên các đồ vàng, bạc, người ta còn thấy người thợ kim hoàn chạm trổ hình ảnh con người, hoặc hình ảnh các loại cây mà theo quan niệm phương đông thì đó là tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của người quân tử: trúc, mai, lan, cúc,... Nói chung ở bất kỳ đồ vàng bạc trạm khắc hoặc đồ nữ trang nào người ta đều dễ nhận thấy hai đặc điểm nổi bật: tạo dáng nghệ thuật và tạo văn (nét chìm, nổi) tinh xảo, sinh động.
Cả phố Hàng Bạc ngày nay chỉ dài khoảng 0,5km, nhưng có đến hàng trăm cửa hàng lớn nhỏ làm nghề chế tác kim hoàn và bán đồ mỹ nghệ vàng bạc. Phần nhiều những cửa hàng thời nay đã trang bị máy móc công nghệ mới từ nước ngoài, song bên cạnh đó vẫn có những gia đình còn giữ nghề chế tác đồ mỹ nghệ thủ công làm bằng tay có từ xa xưa.
Không chỉ giữ gìn được nghề quý của các bậc tiền nhân để lại, những cư dân ở phố Hàng Bạc ngày nay còn duy trì được nếp sống, nếp sinh hoạt truyền thống đặc trưng của cư dân khu phố cổ. Nhiều gia đình giỏi làm ăn, trở nên giàu có, nhưng vẫn sống khiêm nhường, coi trọng chữ tín, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong quan hệ làm ăn, buôn bán./.