‘Cát, vàng sẽ còn thất thoát lớn nếu không sửa Luật Khoáng sản 2010’

Giới chuyên gia cho rằng Luật Khoáng sản 2010 đang bộc lộ nhiều bất cập, nếu không sửa đổi thì không theo kịp thực tiễn và tài nguyên khoáng sản (nhất là cát sông, vàng...) sẽ thất thoát lớn hơn.
Ảnh hoạt động khai thác cát sông trên sông Lô. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Theo đánh giá của giới chuyên gia, sau 13 năm thực thi Luật Khoáng sản 2010, một số quy định của pháp luật về khoáng sản không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước, trong đó tình trạng thất thoát tài nguyên khoáng sản vẫn xảy ra.

Do vậy, việc sửa đổi luật trên thành Luật Địa chất và Khoáng sản là nhiệm vụ then chốt nhằm bắt kịp thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, tăng nguồn thu cho Nhà nước; đảm bảo môi trường sống tốt hơn cho cộng đồng, người dân.

Phải quản lý chặt hơn

Phó Giáo sư- Tiến sỹ Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khóa XIII cho hay sau 13 năm Luật Khoáng sản 2010 đi vào cuộc sống, hoạt động khai khoáng đã mang lại giá trị kinh tế không nhỏ cho đất nước. Trong đó, riêng cấp quyền khai thác khoáng sản, trong giai 10 năm qua, Nhà nước đã phê duyệt khoảng trên 52.000 tỷ đồng.

Đến nay, Nhà nước đã thu vào ngân sách khoảng 29.659 tỷ đồng; trung bình mỗi năm, Nhà nước thu từ 4.300-4.500 tỷ đồng từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

“Dù số tiền trên là chưa nhiều so với trữ lượng tài nguyên khoáng sản mà chúng ta có thể khai thác được, song rõ ràng công tác quản lý của nước ta từ khi có Luật Khoáng sản 2010 đã tốt hơn nhiều so với giai đoạn trước,” bà An nhấn mạnh.

Tuy vậy, bà An cũng thẳng thắn cho rằng bên cạnh các mặt được, Luật Khoáng sản 2010 hiện nay cũng đang nảy sinh những nội dung bất cập, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Đầu tiên là về mặt quản lý, hiện khoáng sản vẫn chưa được quản lý chặt chẽ ở tất cả các khâu. Điển hình như việc thăm dò, đánh giá ở đâu có mỏ, trữ lượng khoáng sản ở dưới lòng đất còn bao nhiêu, trên thực tế vẫn chưa làm tốt.

“Tuy tiền cấp quyền khai thác chúng ta thu được là không nhỏ, nhưng nếu chúng ta thăm dò, đánh giá bài bản hơn, biết được chính xác trữ lượng khoáng sản còn bao nhiêu, thì chúng ta còn có thể thu được gấp 2, gấp 3 lần số tiền hiện nay,” bà An nói.

Về hoạt động khai thác, theo bà An, hiện nay cũng đang “có vấn đề.” Trong đó, việc không đảm bảo công nghệ để khai thác đã gây ra những hậu họa, ảnh hưởng đến tính mạng của người dân. Điển hình như khai thác mỏ vàng, khai thác cát. Đây là vấn đề vô cùng hệ lụy, nhất là đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

“Tôi đã từng chứng kiến những cảnh sụt lún, sạt lở xảy ra bất ngờ làm mất nhà, mất người. Rõ ràng ảnh hưởng từ việc khai thác cát không chỉ là tài sản của nhà nước, tiền bạc, mà còn môi trường sống và tính mạng của người dân,” bà An nói.

Ảnh minh họa. (Nguồn: Vietnam+)

Bên cạnh đó, theo bà An, hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản trên còn kéo theo khai thác lậu, buôn bán lậu. Vấn đề này cho thấy về mặt chính sách cũng chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ. Vì lẽ đó, việc sửa đổi Luật Khoáng sản 2010 là điều vô cùng cấp thiết để hướng tới “lấp đầy” những khoảng trống còn bất cập.

“Nếu không sửa được luật này, tôi nghĩ chúng ta lại tiếp tục thất thoát và sẽ còn mất mát những cái lớn hơn,” bà An trăn trở.

Có chung quan điểm, Giáo sư Lưu Đức Hải - Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (VIASEE) cho biết thêm: “Thông thường, khoáng sản không ‘đi’ một mình. Ví dụ như chì, kẽm, không đơn thuần chỉ là 2 loại khoáng sản này, mà nó còn kèm theo các loại khoáng sản khác và nhiều khi hàm lượng của các loại khoáng sản đi kèm ít (như vàng) nhưng giá trị còn cao hơn. Vì thế, khi việc cấp quyền khai thác không bao quát được thì sẽ dẫn tới thất thoát tài nguyên khoáng sản.”

“Đáng chú ý, mặc dù Việt Nam đã cấm xuất khẩu khoáng sản thô nhưng thực tế tình trạng hoạt động xuất khẩu này vẫn còn diễn ra. Chưa kể, hoạt động khai thác nhiều khi còn chưa tính toán đến các thiệt hại về môi trường,” ông Hải nêu quan ngại và nhấn mạnh rằng việc sửa đổi Luật Khoáng sản 2010 là “mệnh lệnh” từ cuộc sống.

Luật cần bắt kịp nhu cầu thực tiễn

Trước thực trạng trên, Giáo sư Lưu Đức Hải cho rằng để nâng cao hiệu quả quản lý cũng như tránh bỏ soát những lỗ hổng gây thất thoát tài nguyên khoáng sản, việc sửa đổi Luật Khoáng sản 2010 thành Luật Địa chất và Khoáng sản tới đây cần phải quy định cụ thể, rõ ràng hơn về khâu quản lý, đặc biệt là việc thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản.

“Đơn cử như với một khu vực mỏ khoáng sản, khi cấp phép cần phải được đề cập cụ thể về việc xác định trữ lượng, loại trữ lượng tĩnh hay động (ví dụ cát sông, nay khai thác nhưng mai có thể cát từ nơi khác lại trôi tới). Vì thế, vấn đề này, luật cần phải quy định rõ ràng, để không gây thất thoát khoáng sản,” ông Hải lưu ý.

Có chung quan điểm, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Thị An cho rằng vấn đề quan trọng đối với Luật Địa chất và Khoáng sản tới đây là cần xác định cụ thể việc “không đánh đổi môi trường lấy kinh tế.” Ví dụ khi khai thác được một đồng từ việc bán quặng thì cần phải đảm bảo không làm mất một đồng về môi trường.

Với mong muốn trên, bà An đề xuất trong quá trình sửa luật nên có nghiên cứu phân chia tỷ lệ hợp lý đối với các khoản chi phí dành cho đầu tư sản xuất; dành cho địa phương để phục vụ vấn đề an sinh xã hội, làm cho môi trường tự nhiên trong lành trở lại.

“Cùng với đó, chi phí dành cho môi trường xã hội về hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục cũng cần được tính toán cụ thể, để người dân sinh sống tại các khu vực có mỏ bị hoặc được khai thác, họ cảm thấy cuộc sống được tốt hơn,” bà An nói.

Hoạt động khai thác đá trắng tại huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Bà An cũng lưu ý Luật Địa chất và Khoáng sản tới đây cần phải thể hiện được các quy định theo tinh thần của Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về “Định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.” Đó là làm thế nào để vừa đảm bảo hoạt động khai thác khoáng sản, quản lý tốt, vừa làm lợi cho dân sinh như 3 trụ cột về phát triển bền vững: Phát triển kinh tế, xã hội và môi trường được đảm bảo.

Góp thêm ý kiến, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên - ông Trịnh Lê Nguyên cho rằng tài nguyên khoáng sản là tài sản công thuộc quyền sở hữu của toàn dân. Như vậy, với bất kỳ mỏ khoáng sản ở địa phương nào thì người dân ở khu vực đó có quyền được biết thông tin cụ thể về mỏ, loại khoáng sản gì và sẽ được Nhà nước, chính quyền địa phương giao cho ai khai thác; lợi ích mà Nhà nước, doanh nghiệp cũng như cộng đồng dân cư được thừa hưởng thế nào?

“Những thông tin trên, người dân có quyền được biết, tham gia giám sát và được hưởng lợi trong suốt quá trình từ khâu cấp phép, khai thác đến lúc hoàn nguyên môi trường. Vì thế, trong dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản cần được thể hiện rõ nguyên tắc cốt lõi đó,” ông Nguyên nêu quan điểm.

Ngoài ra, ông Nguyên cũng đề cập đến sức ép về sử dụng vật liệu xây dựng; nhất là những tác động tiêu cực từ hoạt động khai thác cát, sỏi (kể cả hợp pháp và trái phép) ở 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Thậm chí, theo ông Nguyên, hoạt động này còn gây ra những bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội và tính mạng của người dân, cộng đồng dân cư tại các khu vực liên quan.

“Do vậy, khi xây dựng dự án Luật Địa chất và Khoáng sản, cơ quan soạn thảo cần dự báo được những phương án có thể xảy ra để quản lý tốt hơn. Chúng tôi cũng hy vọng luật mới sẽ ‘bắt kịp’ được nhu cầu từ thực tiễn để có những sự điều chỉnh về quy định pháp luật để quản lý hiệu quả hơn,” ông Nguyên nói./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục