Trang mạng asiatimes.com mới đây có đăng bài viết cho rằng cuộc cạnh tranh hàng hải đang ở vào thời điểm bước ngoặt của thế kỷ 21.
Nội dung bài viết như sau:
Lịch sử tập trung vào hai điều: hành động và ý tưởng. Nếu chúng ta xét đến các ý tưởng, thì cái tên Alfred Thayer Mahan xứng đáng được nhắc đến.
Mahan, một chiến lược gia hải quân thế kỷ 19 và là tác giả của cuốn "Influence of Sea Power upon History" (tạm dịch: Ảnh hưởng của cường quốc biển đối với lịch sử), lập luận rằng "sự thịnh vượng và sức mạnh quốc gia phụ thuộc vào việc kiểm soát các tuyến đường biển của thế giới. Bất cứ ai thống trị biển cũng sẽ thống trị thế giới."
Đưa điều kể trên vào hành động, có thể kết luận rằng Mỹ buộc phải trở thành một cường quốc hải quân để thành công.
Và để đạt được mục tiêu này đòi hỏi 2 điều - thuê lại các căn cứ hải quân và các cảng cho tàu lấy than ở nước ngoài.
Vì vậy, một trong những yếu tố quan trọng để đạt được vị thế siêu cường là sự hiện diện trên biển trên toàn thế giới và duy trì việc đó thành công.
Như Alice Slater - Giám đốc Quỹ Hòa bình Kỷ nguyên hạt nhân - đã lưu ý, Mỹ hiện nắm giữ 800 căn cứ quân sự chính thức ở 80 quốc gia.
Về sức mạnh trên biển, Mỹ có 9 căn cứ hải quân ở nước ngoài ở các khu vực khác nhau và có hạm đội tàu sân bay lớn nhất thế giới, với 11 chiếc đang hoạt động, 282 tàu chiến có thể triển khai và hơn 3.700 máy bay sẵn sàng hoạt động.
[Tập trận hải quân chung Medusa-8 trên Địa Trung Hải]
Theo David Vine, tác giả cuốn sách "Base Nation: How US Military Bases Overseas Harm America and the World" (tạm dịch: Căn cứ quân sự Mỹ ở nước ngoài gây thiệt hại cho Mỹ và thế giới ra sao), "chỉ có 11 quốc gia khác (ngoài Mỹ) có căn cứ quân sự ở nước ngoài, với tổng cộng khoảng 70 căn cứ.
Nga ước tính có khoảng từ 26 đến 40 căn cứ tại 9 quốc gia, chủ yếu là các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, ở Syria; Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ mỗi nước có từ 4 đến 10 căn cứ; và ước tính Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Italy và Hà Lan mỗi nước có từ 1 đến 3 căn cứ."
Chiến lược phòng thủ mới (NDS) của Chính quyền Trump đã hạ chủ nghĩa khủng bố xuống là mối đe dọa thứ yếu đối với an ninh quốc gia Mỹ và tuyên bố rằng mối đe dọa chính là sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự hồi sinh của nước Nga.
NDS sẽ tập trung phát triển lực lượng hủy diệt nhiều hơn, tăng cường các quan hệ đối tác chiến lược và thu hút các đối tác mới, và hiện đại hóa vũ khí và trang thiết bị, bao gồm các hệ thống phòng thủ tên lửa, không gian mạng và vũ trụ. Chiến lược này nên được coi là sự trở lại của các cuộc chiến giành vị thế Siêu cường trong thế kỷ 21.
Cuộc chiến này có thể được nhìn thấy trong 3 kịch bản sau. Năm 2013 đánh dấu bước ngoặt quan trọng về việc phổ biến học thuyết hải quân do sự bùng nổ hàng loạt cuộc xung đột trên toàn cầu có thể xuất phát từ mức độ leo thang lớn giữa các cường quốc.
Năm đó, ba cuộc khủng hoảng nghiêm trọng liên tiếp xảy ra, đó là cuộc nội chiến ở Syria, tái bùng phát tranh chấp ở Biển Đông và cuộc khủng hoảng tại Ukraine.
Sau khi các sự cố vũ khí hóa học bí mật bùng phát ở Syria, Mỹ tuyên bố sẽ gửi tàu chiến thứ 6, tàu USS San Antonio được trang bị tên lửa hành trình cùng khoảng 2.200 thủy quân lục chiến, tới khu vực này để thực hiện nhiệm vụ tấn công hạn chế, chính xác là cuộc tấn công chống Chính phủ Syria.
Kế hoạch tấn công này đã thất bại do các chính sách ngăn chặn liên tiếp của Nga và Iran.
Theo Rand Corporation, vào tháng 9/2015, sự can thiệp trực tiếp của Nga vào cuộc khủng hoảng Syria là một chiến lược hậu Chiến tranh Lạnh lớn và khác thường để giảm thiểu mối đe dọa khủng bố quốc tế và bảo vệ các căn cứ hải quân và không quân ở Latakia và Tartus.
Đó là điều tối quan trọng đối với Moskva trong việc thể hiện sức mạnh ở phía Đông Địa Trung Hải và khu vực Trung Đông nhằm thách thức Washington và các đồng minh của Mỹ trong khu vực.
Việc Nga triển khai cả hệ thống tên lửa phòng thủ S-300 và tấn công SS-26 ở chiến trường Syria là một biện pháp phòng ngừa để bảo vệ sự hiện diện của lực lượng hải quân trên biển Địa Trung Hải.
Động cơ của Moskva là nhằm giành lại sự chú ý của các đối tác chiến lược chính thức ở Trung Đông và theo đuổi việc bán vũ khí cho các chính phủ Arab.
Trong kịch bản thứ hai, khu vực châu Á-Thái Bình Dương phát triển các xu hướng bấp bênh, không ổn định do cuộc chiến thương mại giữa Washington và Bắc Kinh dưới cái cớ tranh chấp đảo ở Biển Đông.
Vùng biển này có tầm quan trọng lớn đối với Trung Quốc và phần còn lại của thế giới vì khoảng 3,37 nghìn tỷ USD giá trị hàng hóa đi qua khu vực Biển Đông mỗi năm.
Sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khởi xướng một chương trình hiện đại hóa Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) tập trung vào lực lượng hải quân và tên lửa, Trung Quốc đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở khu vực Thái Bình Dương, và Bắc Kinh đã bổ sung vào kho vũ khí của họ tàu sân bay đầu tiên mang tên Liêu Ninh và các tên lửa đạn đạo DF-21D và DF-26.
Theo tờ The New York Times (Mỹ), "trọng tâm của chiến lược này là phát triển một kho tên lửa đạn đạo tốc độ cao có thể tấn công các tàu đang di chuyển.
Các phiên bản mới nhất như DF-21D và DF-26 (từ năm 2016) thường được biết đến với tên gọi 'sát thủ tàu sân bay,' bởi chúng có thể đe dọa các tàu mạnh nhất thuộc hạm đội Mỹ từ xa trước khi các tàu này đến gần Trung Quốc."
Eo biển Malacca là tuyến đường quan trọng đối với hàng hóa thương mại của Trung Quốc nhưng vì nguy cơ có thể xảy ra đụng độ giữa Washington và Bắc Kinh, Trung Quốc đã chuyển trọng tâm của họ sang toàn cầu hóa, bao gồm Sáng kiến Vành đai và Con đường và Hành lang Kinh tế Trung Quốc-Pakistan (CPEC), thúc đẩy hệ thống ngân hàng dưới sự quản lý của Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á để giảm sự phụ thuộc vào Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), và trở thành một phần của sáng kiến BRICS (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi).
Trung Quốc cũng đang tăng cường sự hiện diện của hải quân và tính quyết đoán của quân đội trong một khu vực rộng lớn từ Djibouti ở vùng Sừng châu Phi đến Thái Bình Dương.
Đại sứ quán Mỹ tại Oman thông báo Washington đã xác nhận một thỏa thuận sử dụng các căn cứ không quân và hải quân của quốc gia Trung Đông này tại các cảng chiến lược Duqm và Salalah.
Theo Andrew Korybyko, nhà phân tích chính trị người Mỹ sống tại Moskva, căn cứ vào liên minh Ấn Độ-Mỹ và mạng lưới căn cứ của mỗi nước đang dần sinh sôi nảy nở khắp Đại dương Á-Phi, rõ ràng có thể kết luận rằng điều này đang được thúc đẩy bởi mong muốn chung của hai nước là 'kiềm chế' Trung Quốc, trong bối cảnh Oman lo ngại về khả năng cắt đứt các tuyến thông thương biển (SLOC) giữa Gwadar (Pakistan) và châu Phi trong trường hợp xảy ra xung đột hoặc căng thẳng kéo dài giữa một hoặc cả hai nước với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa."
Kịch bản thứ ba là sự trở lại của vai trò địa chiến lược của Biển Đen, cụ thể là Crimea, có tầm quan trọng sống còn đối với Moskva như một dòng nước ấm chảy qua eo biển Thổ Nhĩ Kỳ đến phía Đông Địa Trung Hải.
Chính sách mở rộng của NATO như được nêu trong Tuyên bố Hội nghị thượng đỉnh Bucharest hồi năm 2008 về việc kết nạp các quốc gia Đông Âu đã tạo ra một yếu tố lo ngại và bất an trong giới hoạch định chính sách ở Moskva. Nga coi nỗ lực này là một mối đe dọa đối với quốc phòng và sự ổn định của họ.
Trong lịch sử, năm 1997, Hiệp ước hữu nghị Nga-Ukraine đã chia Hạm đội Biển Đen theo tỷ lệ Nga 81% và Ukraine 19%, đổi lại Nga sẽ xóa nợ cho Ukraine và cung cấp năng lượng cho nước này với giá ưu đãi, trong khi Ukraine cho Nga thuê căn cứ hải quân Sevastopol trong 20 năm, kéo dài đến năm 2042.
Đến tháng 3/2014, việc Nga sáp nhập Crimea đã mở đường cho việc triển khai các hệ thống S-300 và S-400, các đơn vị phòng thủ bờ biển Bastion-P và các lực lượng phòng không khác cùng hệ thống tên lửa đối đất.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo ngày 4/4 đã kêu gọi các đồng minh NATO hợp tác để đối phó với nhiều mối đe dọa mới xuất hiện từ Nga và Trung Quốc.
Cuộc họp đầu tiên tập trung vào cách răn đe Nga, kể cả ở Biển Đen, nơi 3 tàu hải quân Ukraine bị Nga chiếm giữ hồi năm ngoái.
Theo Vladimir Toucas, cộng tác viên của Chương trình châu Âu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế ở Washington DC (Mỹ), "đối với Nga, Crimea là nguồn lực quân sự, Thổ Nhĩ Kỳ là trụ cột và Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ là một mắt xích chiến lược; và mục tiêu cuối cùng là tiếp cận và hiện diện quân sự ở phía Đông Địa Trung Hải như một đối trọng với sự bành trướng của Mỹ và NATO về phía Đông và sự hiện diện của họ ở Biển Aegean và Trung Địa Trung Hải."
Kết luận, sự hình thành siêu cường và duy trì hiện trạng thông qua việc gia tăng quân sự hóa trên các tuyến đường biển sẽ dẫn đến sự leo thang hơn nữa giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga và các quốc gia lệ thuộc vào họ từ Địa Trung Hải đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong những thập kỷ tới./.