Nghiên cứu chung mới đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Diễn đànNước khu vực châu Á-Thái Bình Dương (APWF) cho thấy hơn 75% quốc gia trong khuvực này đang trải qua mối đe dọa thiếu nước nghiêm trọng, nhiều nước trong số đóphải đối mặt với cuộc khủng hoảng nước sắp xảy ra, trừ khi họ thực hiện ngay lậptức các biện pháp cải thiện quản lý tài nguyên nước.
Bindu Lohani, Phó Chủ tịch ADB về Quản lý Tri thức và Phát triển bền vững chobiết, mặc dù khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã trở thành cường quốc kinh tế, vấnđề đáng báo động là không một quốc gia đang phát triển nào trong khu vực có thểđược xem là "đảm bảo an toàn nước," do đó các quốc gia phải khẩn trương cảithiện quản lý nguồn nước thông qua phương cách lãnh đạo đầy năng lực và hoạchđịnh chính sách sáng tạo.
Ông cho biết nghiên cứu Triển vọng Phát triển Nước ở châu Á năm 2013 đã đưara các phân tích định lượng và toàn diện đầu tiên về an ninh nước trên cơ sởtừng quốc gia trong khu vực. Nghiên cứu xem xét tất cả các cấp độ an ninh nước,từ cấp hộ gia đình cho đến các thảm họa liên quan đến nước, và sử dụng các chỉsố cùng hệ thống bậc thang để xếp hạng sự tiến bộ của mỗi nước trong số 49 quốcgia được đánh giá.
Nghiên cứu cho thấy rằng 37 quốc gia đang phát triển trong khu vực hoặc cómức an ninh nước thấp hoặc chỉ bắt đầu tham gia vào nhiệm vụ cốt yếu về cảithiện an ninh nước, trong khi 12 quốc gia khác đã thành lập hệ thống cơ sở hạtầng và quản lý nguồn nước. Tuy nhiên, không có quốc gia nào trong khu vực chothấy đã đạt đến cấp độ mô hình cao nhất về an ninh nước.
Nam Á và một số khu vực miền Trung và Tây Á đang trong tình trạng tồi tệnhất, có nguồn nước ở các dòng sông đang trong tình trạng rất căng thẳng. Nhiềuđảo Thái Bình Dương cũng phải chịu sự thiếu thốn nước sạch và vệ sinh môitrường, đồng thời rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai ngày càng nghiêm trọng.
Ngược lại Nam Á, nơi có tần số các mối nguy hiểm cao nhất trong khu vực, lạitốt hơn do mức độ đầu tư trong phòng chống thiên tai cao. Tuy nhiên, an ninhnước đô thị vẫn còn yếu kém tại nhiều thành phố và thị trấn.
Nghiên cứu trên nhấn mạnh hai thực tế khắc nghiệt, đó là sự bất bình đẳng giatăng trong việc tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường và tình trạng không ổnđịnh của các con sông ngày càng tăng; đồng thời đưa ra các biện pháp có thể ápdụng để cải thiện an ninh nước nhằm giảm thiểu áp lực ngày càng tăng từ bùng nổdân số, đô thị hóa, ô nhiễm môi trường, khai thác nước ngầm quá mức, biến đổikhí hậu và các yếu tố khác.
Tầm quan trọng của việc sử dụng nước hữu ích hơn, bao gồm tái chế nước đã sửdụng, tăng cường đầu tư vệ sinh môi trường, khuyến khích các nhà sản xuất thựcphẩm và năng lượng sử dụng nước hiệu quả, áp đặt nhiều hơn nữa các quy định vềsử dụng nước ngầm, nâng cấp các dịch vụ thủy lợi, tăng cường quản lý lưu vựcsông, huy động nhiều hơn nữa đầu tư khu vực tư nhân làm sạch các con sông và cảithiện quản lý rủi ro thiên tai, tất cả đều cần thiết cho một tương lai an toànnước, cũng được nghiên cứu đề cập đến./.
Bindu Lohani, Phó Chủ tịch ADB về Quản lý Tri thức và Phát triển bền vững chobiết, mặc dù khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã trở thành cường quốc kinh tế, vấnđề đáng báo động là không một quốc gia đang phát triển nào trong khu vực có thểđược xem là "đảm bảo an toàn nước," do đó các quốc gia phải khẩn trương cảithiện quản lý nguồn nước thông qua phương cách lãnh đạo đầy năng lực và hoạchđịnh chính sách sáng tạo.
Ông cho biết nghiên cứu Triển vọng Phát triển Nước ở châu Á năm 2013 đã đưara các phân tích định lượng và toàn diện đầu tiên về an ninh nước trên cơ sởtừng quốc gia trong khu vực. Nghiên cứu xem xét tất cả các cấp độ an ninh nước,từ cấp hộ gia đình cho đến các thảm họa liên quan đến nước, và sử dụng các chỉsố cùng hệ thống bậc thang để xếp hạng sự tiến bộ của mỗi nước trong số 49 quốcgia được đánh giá.
Nghiên cứu cho thấy rằng 37 quốc gia đang phát triển trong khu vực hoặc cómức an ninh nước thấp hoặc chỉ bắt đầu tham gia vào nhiệm vụ cốt yếu về cảithiện an ninh nước, trong khi 12 quốc gia khác đã thành lập hệ thống cơ sở hạtầng và quản lý nguồn nước. Tuy nhiên, không có quốc gia nào trong khu vực chothấy đã đạt đến cấp độ mô hình cao nhất về an ninh nước.
Nam Á và một số khu vực miền Trung và Tây Á đang trong tình trạng tồi tệnhất, có nguồn nước ở các dòng sông đang trong tình trạng rất căng thẳng. Nhiềuđảo Thái Bình Dương cũng phải chịu sự thiếu thốn nước sạch và vệ sinh môitrường, đồng thời rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai ngày càng nghiêm trọng.
Ngược lại Nam Á, nơi có tần số các mối nguy hiểm cao nhất trong khu vực, lạitốt hơn do mức độ đầu tư trong phòng chống thiên tai cao. Tuy nhiên, an ninhnước đô thị vẫn còn yếu kém tại nhiều thành phố và thị trấn.
Nghiên cứu trên nhấn mạnh hai thực tế khắc nghiệt, đó là sự bất bình đẳng giatăng trong việc tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường và tình trạng không ổnđịnh của các con sông ngày càng tăng; đồng thời đưa ra các biện pháp có thể ápdụng để cải thiện an ninh nước nhằm giảm thiểu áp lực ngày càng tăng từ bùng nổdân số, đô thị hóa, ô nhiễm môi trường, khai thác nước ngầm quá mức, biến đổikhí hậu và các yếu tố khác.
Tầm quan trọng của việc sử dụng nước hữu ích hơn, bao gồm tái chế nước đã sửdụng, tăng cường đầu tư vệ sinh môi trường, khuyến khích các nhà sản xuất thựcphẩm và năng lượng sử dụng nước hiệu quả, áp đặt nhiều hơn nữa các quy định vềsử dụng nước ngầm, nâng cấp các dịch vụ thủy lợi, tăng cường quản lý lưu vựcsông, huy động nhiều hơn nữa đầu tư khu vực tư nhân làm sạch các con sông và cảithiện quản lý rủi ro thiên tai, tất cả đều cần thiết cho một tương lai an toànnước, cũng được nghiên cứu đề cập đến./.
Kim Dung/Kuala Lumpur (Vietnam+)