Đại biểu Quốc hội lo ngại tỷ lệ nợ công cao và tăng nhanh

Tại phiên thảo luận chiều 2/11, một số đại biểu Quốc hội tỏ ý lo ngại về tỷ lệ nợ công cao và có xu hướng tăng nhanh, năm 2015 là 61,3% sắp chạm đến mức trần 65%.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp Nguyễn Hữu Đức phát biểu ý kiến. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Tiếp tục phiên thảo luận về tình hình kinh tế xã hội, chiều 2/11, đại biểu Quốc hội dành nhiều thời gian phân tích về các vấn đề nợ công, thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nền kinh tế và tạo nền tảng cho nông nghiệp phát triển bền vững.

Tiến trình tái cơ cấu hết sức cam go

Ghi nhận nỗ lực và trách nhiệm cao của Chính phủ trong chỉ đạo điều tiết kinh tế vĩ mô thời gian qua, nhưng cũng nhìn thẳng vào thực tế là tiến trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế còn khoảng cách khá xa đích cần đến - đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) đã phát biểu như vậy và phân tích quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước vẫn còn ngổn ngang; tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại tuy đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn cần tiếp tục quan tâm, giải quyết tận gốc; tái cơ cấu đầu tư công, thành tích lớn nhất đạt được dừng lại ở việc thiết lập một khung khổ thể chế mới cho hoạt động đầu tư trong tương lai.

Theo đại biểu, về 3 đột phá chiến lược, ngoại trừ cơ sở hạ tầng giao thông có những tiến triển nhất định, hai vấn đề là thể chế và con người vẫn còn rất trì trệ, nan giải, song nội dung này vẫn chưa được đề cập đầy đủ trong các báo cáo. Điều đáng lưu ý hơn nữa là kế hoạch tái cơ cấu kinh tế 2016-2020 nêu trong báo cáo thay vì cần hoạch định lại để thực thi thành công đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, báo cáo đã đưa ra 6 lĩnh vực tái cơ cấu mới về công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, kinh tế biển, các vùng và khu kinh tế, doanh nghiệp... Điều này phản ánh một sự thật là tiến trình tái cơ cấu hết sức cam go, va đập với những vấn đề nhạy cảm nhất của thể chế và sự lúng túng khi chưa tìm được hướng đi và giải pháp một cách hiệu quả, vững chắc.

Nhắc lại kế hoạch tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng nêu lên thực tại theo đúng kế hoạch đặt ra, chỉ trong hai năm 2014-2015 có thể tái cơ cấu, cổ phần hóa 432 doanh nghiệp Nhà nước nhưng đến nay còn khoảng 100 doanh nghiệp chưa hoàn thành. Từ phiên họp đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu nếu người đứng đầu không thực hiện cổ phẩn hóa sẽ bị xử lý nhưng đến nay không có thông tin gì về việc ai chịu trách nhiệm trong quá trình cổ phần hóa.

Tạo nền tảng cho nông nghiệp hội nhập thành công

Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo quyết liệt để hàng nông, thủy sản của Việt Nam hội nhập sâu vào thị trường thế giới, góp phần thay đổi diện mạo của nông nghiệp, nông thôn là ý kiến của đại biểu Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh). Đại biểu cho rằng, sắp tới, Việt Nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn của gần 60 quốc gia trên thế giới khi đã hoàn thành việc ký kết hiệp định FTA, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp trong nước gia tăng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ sang các nước có thuế suất ưu đãi, đặc biệt là đối với các nhóm ngành nông sản đang có lợi thế như lúa gạo, thủy sản, tiêu, điều, cao su. Thuận lợi luôn đi kèm với thách thức, nếu không chủ động sẽ tác động xấu đến nền kinh tế, trong đó có nền sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống của nông dân.

Theo đại biểu, nên bắt đầu từ việc thiết kế xây dựng một khung chính sách hoàn chỉnh và thông thoáng phù hợp để tạo động lực phát triển tốt cho nền kinh tế. Cần nhìn lại những bất cập trong kết quả xây dựng chính sách thời gian qua để tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa hoặc ban hành mới những chính sách mang tính đột phá để chắp cánh cho hàng hóa nông sản, thủy sản của Việt Nam ra thị trường thế giới. Chính sách phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam khá đầy đủ nhưng chưa tạo động lực phát triển đúng mức. Từ trước đến nay chúng ta ít quan tâm đến đo lường hiệu quả của tác động chính sách để thấy được những tồn tại và kịp thời điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Thực tế nhiều chính sách được ban hành suốt thời gian dài nhưng hiệu quả đạt được chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, đại biểu Tuấn nhận định.

Một trong những dẫn chứng được đại biểu đưa ra là Luật hợp tác xã. Các hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam đang đi những bước đi chậm chạp đến khó tả. Nhiều bất cập của chính sách đã làm kéo thấp hiệu quả của mục tiêu giảm tổn thất cho nông nghiệp mà Chính phủ đã đặt ra. Đây cũng là mục tiêu quan trọng trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ thực trạng hàng hóa nông nghiệp ứ đọng, khó tiêu thụ, sức cạnh tranh thấp, đại biểu Nguyễn Thanh Thủy (Hậu Giang) đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo ngành nông nghiệp có giải pháp đột phá trong thực hiện tái cơ cấu trước những thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế và giải quyết những yếu kém bất cập nội tại của nền kinh tế nông nghiệp từ nhiều năm nay như liên kết 4 nhà tham gia vào chuỗi giá trị ngành hàng từ khâu giống, quy trình tổ chức sản xuất, chế biến, đảm bảo an toàn chất lượng, tìm kiếm thị trường tiêu thụ bền vững hơn.

Đồng quan điểm, đại biểu Trần Văn Minh (Quảng Ninh) đưa ra giải pháp đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, tái cơ cấu nông nghiệp, triển khai sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp khoa học công nghệ tận dụng tối đa các ưu đãi, hỗ trợ khi đầu tư nghiên cứu, tham gia liên kết quy mô lớn... Nông nghiệp Việt Nam buộc phải phát triển theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có giá trị gia tăng cao và bền vững dựa trên nền tảng hộ nông dân, kinh tế hợp tác và doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển chuỗi giá trị, gắn nông dân và hợp tác xã với thị trường, xây dựng các vùng chuyên canh quy mô lớn, nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng khoa học công nghệ phù hợp để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, bảo đảm quy chuẩn, tiêu chuẩn cả về mặt kinh tế và môi trường.

Để thu hút tốt hơn doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, cần ưu tiên phát triển nhóm doanh nghiệp làm chế biến tinh, chế biến sâu, chế biến phụ phẩm; áp dụng công nghệ cao đối với các ngành hàng có lợi thế tại các vùng nông thôn; chú trọng hình thành từng bước các tổ hợp nông-công nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, gắn kết chặt chẽ với nông dân theo mô hình sản xuất nông nghiệp đa chức năng và phát triển bền vững.

Còn theo đại biểu Nguyễn Văn Tiên (Tiền Giang), cơ chế pháp lý, đòn bẩy đúng để nông nghiệp Việt Nam phát triển là cơ chế sử dụng đất đai. Phải khuyến khích mạnh mẽ như thời kỳ làm Khoán 10, phải tích tụ đất đai nông nghiệp mới phát triển được. Chính phủ và Quốc hội cần xem xét vì sao Đảng đã có chủ trương khuyến khích tích tụ đất đai nhưng hiện nay chưa làm được nhiều. Người nông dân hiện không muốn sản xuất, việc chuyển nhượng đất sản xuất cho người khác cần có cơ chế phù hợp để đảm bảo lợi ích của cả doanh nghiệp và nông dân.

Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả đầu tư công, hạn chế nợ công

Nhiều đại biểu đánh giá tình hình kinh tế năm 2015 và thực hiện kế hoạch giai đoạn 2011-2015 tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2015 dự kiến vượt kế hoạch bình quân 5 năm 2011-2015 là dấu hiệu tích cực nhưng chưa thật sự bền vững. Nền kinh tế bộc lộ nhiều dấu hiệu đáng quan tâm như tốc độ tăng trưởng chưa đạt yêu cầu, nợ công tăng cao, ứng dụng khoa học công nghệ còn thấp so với các nước trong khu vực, chưa có doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu...

Một số ý kiến tỏ ý lo ngại về tỷ lệ nợ công cao và có xu hướng tăng nhanh, năm 2015 là 61,3% sắp chạm đến mức trần 65%. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế, tạo ra áp lực trả nợ ngày càng lớn, nếu không kịp thời giải quyết thì nền kinh tế sẽ bất ổn. Vì vậy, cần có giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế trong năm 2016 và cách năm tiếp theo.

Tỏ ý băn khoăn về các số liệu trong báo cáo kinh tế-xã hội năm 2015, đại biểu Nguyễn Đức Kiên (Sóc Trăng) cho rằng nhận định nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là ổn định, tăng trưởng và phát triển chưa thực sự chính xác.

Nợ công của Việt Nam trong năm 2011 chỉ chiếm 46%, dự kiến đến đến hết 2015 là 61,3%, trong khi đó, tốc độ tăng tưởng kinh tế 5 năm bình quân chiếm khoảng 5,9%. Trong khi đó, đối với Indonesia, nợ công năm 2001 là 26,09%, đến 2014 vẫn giữ ở 26,11% nhưng tốc độ tăng trưởng GDP là 4,5%. Quy mô nền kinh tế của Indonesia lớn gấp hơn 5 lần quy mô nền kinh tế Việt Nam. Nếu chỉ lấy con số tỷ lệ % rất dễ xác định là tốc độ tăng trưởng khá nhưng so với cả quy mô GDP, sẽ thấy khoảng cách tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng rông ra so với các nước trong khu vực. Chỉ số ICOR năm 2011 của Việt Nam là 5,3%, đến năm 2014 là 5,18. Như vậy, trong vòng 4 năm thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, giảm 0,12% và Việt Nam tiếp tục đứng thứ 12 trong danh sách các nước có khả năng dễ vỡ nợ công nhất. Vì vậy cần nhìn rõ trách nhiệm và những tồn tại của nền kinh tế để có các biện pháp cụ thể trong năm 2016, đại biểu Nguyễn Đức Kiêm nêu quan điểm.

Đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) tỏ ý lo ngại vấn đề thâm hụt ngân sách và áp lực nợ công ngày càng nặng nề hơn dù Chính phủ đã nỗ lực tận thu, tiết kiệm chi, thu gọn giảm chi đầu tư công, tăng cường kỷ luật tài chính, sức ép trả nợ đến hạn lớn trong khi nguồn huy động để cân đối ngân sách đang bế tắc. Đại biểu nêu rõ mặc dù tư tưởng và quan điểm trong Nghị quyết 7 8/2014/QH13 của Quốc hội về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015 rất chiến lược, rất đúng đắn nhưng vướng mắc trong triển khai hiện nay khả năng tái thâm hụt ngân sách, để cơ cấu lại nợ ngân sách. Đại biểu cho rằng giải pháp khả thi nhất hiện nay là đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bán bớt tài sản, thu hẹp khu vực kinh tế nhà nước để có nguồn tiền trang trải một phần nợ đến hạn.

Cùng ý kiến, đại biểu Trần Xuân Vinh (Quảng Nam) đề nghị Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả đầu tư công; rà soát tổng thể quy hoạch ngành, lĩnh vực, vùng, liên vùng; tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư trong quá trình tái cơ cấu, chống thất thoát lãng phí; đa dạng hóa các hình thức đầu tư trên cơ sở đảm bảo minh bạch, công khai hóa... Đồng thời, cần tách bạch hình thức sở hữu và dùng chung giữa các doanh nghiệp Nhà nước; tiếp tục xử lý dứt điểm nợ chéo, sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp tập đoàn nhà nước, phân bổ lại nguồn lực từ những lĩnh vực kém hiệu quả sang lĩnh vực hiệu quả hơn theo hướng chuyển giao cho khu vực Nhà nước thực hiện nhằm giảm thiểu chi phí xã hội, góp phần sử dụng vốn Nhà nước một cách hiệu quả hơn…

Tiếp tục dành nguồn lực cho giảm nghèo bền vững

Báo cáo rõ hơn các nội dung liên quan đến việc xây dựng chuẩn nghèo mới và các chính sách cụ thể dành cho vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền cho biết Chính phủ đã chỉ đạo tổng kết 5 năm chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo.

Chính phủ đánh giá mặc dù còn khó khăn nhưng ngân sách vẫn dành một nguồn lực rất lớn 172.000 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước đã giảm khoảng 2%, riêng hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 4%/năm, có nơi giảm 5%. Thực hiện Nghị quyết 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Chính phủ đã hoàn thành chuẩn nghèo mới với hai mức: bình quân 900 nghìn đồng/người/tháng ở thành thị và 700 nghìn đồng/người/tháng ở nông thôn. Ở dưới mức chuẩn này sẽ được xác định là hộ nghèo.

Với mục tiêu cao nhất là giảm nghèo nhanh, bền vững, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét việc tiếp tục thực hiện Đề án về chương trình quốc gia về giảm nghèo; đồng thời chỉ đạo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sau khi công bố chuẩn nghèo của giai đoạn 2016-2020 sẽ tiếp tục rà soát, đánh giá hộ nghèo. Chính phủ xác định giảm nghèo là mục tiêu không thể cắt giảm vì vậy sẽ tiếp tục bố trí về nguồn lực về vấn đề này. Riêng đối với những vùng “lõm,” vùng “trũng,” Chính phủ giao cho Ủy ban Dân tộc tiếp tục thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Như vậy các vùng này sẽ tiếp tục được quan tâm đầu tư ở giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh đó, ngày 9/9/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020 nhằm hỗ trợ cho vùng đồng bào dân tộc ở những nơi có rừng, tạo điều kiện cho những người sống bằng nghề rừng yên tâm với công việc. Đây cũng là một trong những biện pháp hỗ trợ giảm nghèo tại vùng dân tộc đặc biệt khó khăn.

Chưa thỏa mãn với phần trả lời của Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền, đại biểu Nguyễn Thái Học (Phú Yên) đặt câu hỏi: "Tỷ lệ hộ nghèo bình quân chung của cả nước là 4,5%, tỷ lệ hộ nghèo của 64 huyện nghèo là 28%. Nếu xác định hộ nghèo theo tiêu chí mới thì tỷ lệ này sẽ tăng lên nhiều lần?."

Băn khoăn với các số liệu Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội nêu ra, đại biểu Nguyễn Thái Học chỉ rõ trên thực tế thường cho thấy khi lấy số liệu kết quả thành tích giảm nghèo ở các địa phương, tỷ lệ hộ nghèo thường thấp và giảm mạnh nhưng khi lấy số số liệu để xác định xã nghèo huyện nghèo cần được đầu tư, tỷ lệ hộ nghèo lại tăng lên. Điều này phản ánh không thực chất tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng miền, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận người dân có tư tưởng trông chờ vào chính sách hỗ trợ người nghèo nên không muốn thoát nghèo, vẫn còn sự chồng chéo, sử dụng còn lãng phí nguồn vốn giảm nghèo tại các địa phương.

Đồng thời, cần làm rõ việc vì sao Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách, nhiều giải pháp ưu tiên giảm nghèo nhanh bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số nhưng kết quả chưa như mong muốn, phải chăng các giải pháp đối với vùng này chưa đủ căn cơ, nhất là về giao thông, nước sạch, dân trí... Đại biểu đề nghị Chính phủ có sự rà soát, đánh giá, chỉ đạo để giảm nghèo bền vững trong thời gian tới.

Sáng 3/11, Quốc hội sẽ tiếp tục thảo luận về nội dung này./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục