Huyền thoại anh "La Văn Cầu" của tàu không số

Nhắc tới cái tên Phan Hải Hồ, những cựu binh của con tàu không số oai hùng một thời lại trìu mến gọi tên anh "La Văn Cầu" trên biển.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, con đường mòn HồChí Minh xuyên dọc dải Trường Sơn đã đi vào lịch sử vẻ vang của cả dântộc.

Ngoài ra, còn có một con đường khác trên biển Đông không kém phầnnổi tiếng gắn với những con tàu không số, những chiến sỹ dũng cảm vànhững chiến công thầm lặng. Trong số những con người đó, có một ngườiđược đồng đội trìu mến gọi bằng cái tên anh "La Văn Cầu trên biển."

Đó là anh Phan Hải Hồ, người đã khẩn thiết đề nghị đồngđội chặt đứt hẳn một phần chân bị thương dập nát của mình để tiếp tụcchiến đấu suốt đêm phá vòng vây của tàu địch cho tới khi bị ngất xỉu vìmất nhiều máu. Đặc biệt, anh còn vinh dự được kết nạp Đảng chính thứcngay trong trận đánh ác liệt không cân sức vào thời khắc quả cảm đó.

Chiến công thầm lặng

Cũng như lớp lớp thanh niên, trai tráng cùng thời, năm1962, Phan Hải Hồ rời thôn Địch Lễ A, xã Nam Vân, huyện Nam Trực (naythuộc thành phố Nam Định) lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng vớiTổ quốc.

Anh được nhận vào Đoàn 125 (Bộ tư lệnh Hải quân), đơn vị chịutrách nhiệm huấn luyện và cử những con tàu không số chở vũ khí đạn dượcvào tiếp viện cho chiến trường miền Nam.

Năm 1964, sau một khoá huấnluyện, anh tình nguyện xin đi B và từ đó gắn chặt cuộc đời mình với contàu huyền thoại mang mật danh 69. Ngày 21/3/1966, sau 3 chuyến đi antoàn, anh và 15 đồng đội được lệnh xuất phát chở 72 tấn vũ khí vào VãmLũng, xã Tân An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.

Trên đường đi, tàu 69 bị tàu chiến và máy bay địch theo dõi nên phảiquay trở về hai lần. Ngày 15/4/1966, tàu được lệnh tiếp tục lên đường.Tối 23/4/1966, vượt qua nhiều hiểm nguy, tàu cập bến ở Cà Mau. Sau khibốc dỡ và chuyển hàng hoá đến nơi an toàn, các thủy thủ phát hiện chânvịt tàu bị hỏng. Mất hàng tháng trời loay hoay giữa rừng đước trong sựtruy lùng gắt gao của địch, mọi người mới sửa xong chân vịt của con tàunặng hàng trăm tấn với chỉ một cái đốc nổi làm bằng thân cây đước và vàichiếc đèn khò thô sơ.

Đoán tàu 69 của tađang ở trong rừng đước, địch cho tàu ém ở các cửa biển, chặn lối ra. Mấylần, ông Hồ cùng các đồng đội của mình tìm cách trở về miền Bắc nhưngkhông thành. Đêm 31/12/1966 rạng sáng mồng 1/1/1967, nhận định rằng bọnđịch đang bận bịu đón Tết Dương lịch, có thể chểnh mảng việc canh phòng,hơn nữa tin báo cho biết tình hình ngoài cửa vàm yên tĩnh, ban chỉ huyĐoàn 962, đơn vị "bến" chuyên tiếp nhận các con tàu không số từ miềnBắc, quyết định tổ chức để tàu 69 bất ngờ rời nơi ẩn nấp.

Theo lời kể của bác Nguyễn Hữu Phước, Thuyền trưởng tàu69, hiện sinh sống tại thành phố Cần Thơ; bác Đỗ Duy Huyễn, nguyên y tátàu 69, hiện sinh sống tại xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu (Nam Định) và cácđồng đội khác, 17h00 hôm đó, tàu 69 lặng lẽ khởi hành quay trở về miềnBắc. Mọi việc ban đầu có vẻ xuôi. Tuy nhiên, đến khi cách bờ khoảng 5km,vị trí phía sau báo cho Thuyền trưởng có 1 tàu cao tốc của địch đuổitheo. Chúng chủ quan chạy cách tàu ta 50 m và soi đèn vào tàu. Tàu 69buộc phải dùng toàn bộ hoả lực gồm 3 khẩu B41, 2 khẩu 12 ly 7, 1 khẩuDKZ.

Tàu 69 tiêu diệt gọn mục tiêu. Tuy nhiên, một số anh em trên tàu 69cũng bị thương vong. Cán bộ chỉ huy tàu họp chớp nhoáng và quyết địnhcho tàu 69 quay trở lại nơi xuất phát vì nếu đi tiếp sẽ bị địch bắt vàtiêu diệt. Toàn bộ vũ khí đạn dược được chuyển lên boong tàu sẵn sàngchiến đấu.

Tàu đi đến 22 giờ 30, địch dùng 2 máy bay thả pháo sáng từ RạchDấp đến Vàm Lũng. Chúng điều 5 tàu cao tốc trang bị hoả lực mạnh để truyđuổi. Chúng dàn 3 chiếc bên trái cách tàu ta khoảng 1 km, 2 chiếc khácbám sát sau tàu ta cũng ở cự ly khoảng 1 km. Súng 12 ly 7 và B41 của tabắn buộc địch giãn ra. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Nhằm ngănkhông cho tàu 69 quay lại vàm, địch gọi thêm tàu chắn ở các cửa Rạch Gốcvà Bồ Đề, đồng thời nã pháo lớn trước mũi tàu 69. Tàu địch bao vây xungquanh và đổ đạn không tiếc...

Trong cuộcchiến đấu không cân sức đó, chân phải của báo vụ 2 Phan Hải Hồ bị dínhđạn. Mảnh đạn găm vào chân khiến máu chảy lênh láng. Xương chân anh dậpnát, chỉ còn lớp da dính ngoài. Tuy vậy anh vẫn tiếp tục ôm súng bắn trảđịch. Thấy chiếc chân gãy làm mình vướng víu, anh đề nghị y tá Đỗ DuyHuyễn lấy dao cắt. Đồng chí y tá vì thương đồng đội nên không dám cắt.Sau đó, anh Hồ nói với Thuyền phó : "Anh giúp tôi chặt chiếc chân này.Vướng quá. Khó chiến đấu".

Sau 2 lần đề nghị, thuyền trưởngquyết định cho cắt. Anh Huyễn lao vào trong lấy con dao làm bếp. Ngaydưới bệ pháo, dưới làn đạn xối xả của địch, đồng chí chính trị viên tàudùng dao cắt rời phần chân bị nát của người đồng đội. Máu me anh Hồ chảyđầy boong tàu. Sau đó, Phan Hải Hồ được y tá ga-rô để cầm máu. Trongkhi được "phẫu thuật" bằng con dao làm bếp, Phan Hải Hồ tiếp tục dũngcảm dùng 12 ly 7 tấn công địch.

Tàu càng vàogần bờ, bọn địch càng bắn mạnh. Chỉ còn một chân, Phan Hải Hồ vẫn lêđi, điểm từng loạt đạn rất chuẩn. Nhìn anh Hồ đau đớn nhưng không naonúng, chính trị viên tàu 69 Tăng Văn Huyễn cảm động, nói to : "Nhân danhBí thư Chi bộ, tôi tuyên bố từ giờ phút này, đồng chí đảng viên dự bịPhan Hải Hồ trở thành đảng viên chính thức của Đảng".

Mặc máy bay địchquần thảo trên trời, thả bom, bắn rốc két, các thuỷ thủ cuối cùng cũngđưa được tàu 69 lọt vào cửa vàm, thoát khỏi vòng vây của địch. Phan HảiHồ và các chiến sĩ bị thương trên tàu được đồng đội đưa vào quân y việnđiều trị. Ở đây, anh phải trải qua 3 lần phẫu thuật cắt chân và nhiềulần bị hôn mê bất tỉnh vì quá đau đớn. Vì thành tích trong trận đánh đêm31/12/1967, anh được cấp trên tuyên dương, tặng Huân chương chiến sỹgiải phóng hạng 3.

Điều trị vết thương ổnđịnh, anh xin về Đoàn 962 công tác. Tại đơn vị mới, anh được phân cônglàm trợ lý chính trị của Đoàn 962 và thư ký riêng cho Đoàn trưởng BôngVăn Dĩa, người sau này được tặng thưởng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũtrang nhân dân Việt Nam."

Tháng 10/1975, anh được cấp trên cho ra Bắcan dưỡng tại Đoàn 586 thuộc Quân khu 3 đóng tại Lý Nhân (Hà Nam). Saumột quá trình chiến đấu, rèn luyện trong quân đội, anh cũng được thưởngnhiều Huân, Huy chương các loại và Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng (năm 2006).

Giản dị giữa đời thường

Khi đang ở trại an dưỡng, cảm phục tấm gương dũng cảm của anhthương binh trẻ, một cô gái trẻ người Nghệ An đã đem lòng yêu mến anh.Hai người quyết định xây dựng gia đình vào tháng 10/1976. Đây là ngườicon gái thứ hai trong đời mà anh rất mực yêu thương.

Trước đó, anh đã cólời ước hẹn với một cô gái cùng thôn ngay trước ngày lên đường nhậpngũ. Tuy nhiên, thương cô con dâu tương lai phải chờ đợi đằng đẵng vôvọng nhiều năm và nghĩ anh khó có ngày trở lại, mẹ anh nhiều lần khuyênnhủ rồi quyết định gả chồng cho chị.


Tháng4/1977, anh xin giải ngũ về với gia đình. Từ năm 1978, anh tham giacông tác tại Hợp tác xã nông nghiệp Nam Vân và là Bí thư Chi bộ thônĐịch Lễ từ năm 1987 đến năm 1992. Năm 1992, do vết thương tái phát, sứckhoẻ không đảm bảo, anh xin nghỉ công tác hẳn. Tuy nhiên, do hoàn cảnhgia đình quá khó khăn, anh và vợ phải lăn lộn đủ nghề để nuôi đàn con 4đứa đang tuổi ăn học.

Chỉ còn một chân, anhvẫn cố gắng đi cày, đi bừa trên 8 sào ruộng khoán của gia đình. Anh vàchị còn chăn nuôi lợn tăng gia thêm. Nhà gần đường quốc lộ, anh quyếtđịnh mở một quán nhỏ vừa cắt tóc, vừa bơm vá và sửa chữa xe đạp chokhách đi đường. Tối đến, anh nhận trông coi nhà văn hoá thôn để kiếmthêm tiền. Thương bố mẹ vất vả, khi được nghỉ hè, hai đứa con đầu củaanh chị nhận đi bán kem dạo. Tuy vậy, cuộc sống của anh cũng không mấy"xuôi chèo mát mái".

Nhiều lần, vết thương cũ tái phát, rò rỉ tủy, anhphải nằm viện hàng tháng trời, rất tốn kém cho gia đình. Thấy gia đìnhanh quá khó khăn, nhiều người khuyên anh đi khám lại thương tật để đượchưởng mức trợ cấp cao hơn. Những lần như vậy, anh chỉ mỉm cười cảm ơn vàtự bảo mình : "Mình không được đòi hỏi điều gì. Đất nước còn nhiều khókhăn và mình còn may mắn hơn nhiều người, nhất là so với những ngườiđồng đội đã bỏ thân ngoài chiến trường."

Tháng 2/1999, sau nhiều năm băm rau, nấu cám, "bán mặt cho đất bán lưngcho trời", cộng với tiền truy lĩnh Huân chương, anh chị cóp nhặt được3,1 triệu đồng. Nghe vợ bàn định dùng số tiền đó để sửa cái nhà đã quádột nát, anh im lặng vì chưa dám nói cho vợ điều anh nhiều năm đau đáu.Nhưng rồi thấy anh nhiều đêm trằn trọc, vợ anh hiểu.

Chị đã nói một câumà trong đời anh không bao giờ quyên được : "Em biết anh muốn dùng sốtiền ấy làm việc gì rồi. Em đồng ý. Tiền cũng quý nhưng tình nghĩa cònquý hơn. Anh cứ dùng số tiền đó mà đi thăm mộ đồng đội. Em biết lâu nayanh vẫn bứt rứt vì chuyện đó... Có điều kiện thì nên thực hiện. Nếu cáitâm mình được thanh thản, ba triệu bạc đâu có đắt."

Được vợ ủng hộ hết lòng, ngay hôm sau anh lên đường đi Cà Mau.Anh đã tới thăm lại chiến trường xưa, tới nghĩa trang thắp hương cho 4ngôi mộ vô danh của đồng đội tàu 69 và đặc biệt là con tàu 69 lúc đó sắpbị chìm hẳn trên rạch Xẻo Già. Sau chuyến đi đầy cảm xúc đó, anh cònmay mắn được gặp lại một số đồng đội của mình nhân dịp kỷ niệm 40 nămthành lập đường Hồ Chí Minh trên biển tại Hải Phòng năm 2001.

Sau một ca tai biến mạch máu não phải đi bệnh viện BạchMai cấp cứu và điều trị, anh bị liệt không đi lại được và hiện phải gắnchặt với chiếc xe lăn do báo Quân đội nhân dân trao tặng. Tuy nhiên, quanhững câu nói ngắt quãng hết sức khó khăn, chúng tôi biết anh vẫn ấp ủmột mong ước cuối cùng của đời mình là được gặp lại các đồng đội tàu 69xưa tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập đường Hồ Chí Minh trên biển vàocuối tháng 10 này tại thành phố Hải Phòng./.

Hữu Chiến (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục