Liệu ngoại giao khoa học có thể giúp giải quyết vấn đề Biển Đông?

Trang tin geopoliticalmonitor đã đăng bài phân tích của hai học giả James Borton và John W. McManus về việc ngoại giao khoa học có thể tạo cơ chế giải quyết hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông.
Liệu ngoại giao khoa học có thể giúp giải quyết vấn đề Biển Đông? ảnh 1Ảnh minh họa. (Nguồn: wikipedia.org)

Ngày 3/5, trang tin geopoliticalmonitor đã đăng bài phân tích của hai học giả James Borton, chuyên gia cao cấp của viện Mỹ-​Châu Á và giáo sư sinh thái, sinh học biển trường đại học Miami John W. McManus về việc ngoại giao khoa học có thể tạo cơ chế giải quyết hòa bình các tranh chấp tại Biển Đông.

Theo bài viết, bảo vệ môi trường biển và đảm bảo sự bền vững của đại dương là vấn đề toàn cầu, có ý nghĩa sống còn đối với sự sống của loài người. Trong bối cảnh tranh chấp tại Biển Đông vẫn không ngừng tiếp diễn, vấn đề bảo vệ môi trường tại đây trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Biển Đông vốn chứa đựng một hệ sinh thái biển hết sức phong phú. Tuy nhiên, các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và các nước đã làm phát sinh những mối đe dọa nguy hiểm tới an ninh sinh thái và sự ổn chính trị của khu vực Đông Nam Á. Sự xuống cấp về môi trường tại đây vẫn là vấn đề trung tâm trong nhiều cuộc thảo luận về chính sách khoa học Biển Đông. Ngày càng nhiều các nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học cho rằng, một trong những việc làm cấp bách về môi trường hiện nay tại Biển Đông là cần tìm ra các giải pháp đối phó với vấn đề axít hóa, mất đa dạng sinh học, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, sự phá hoại các rạn san hô biển và sự xuống cấp của các nguồn thủy hải sản.

Theo Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Mỹ (AAAS), ngoại giao khoa học có thể được sử dụng để thông tin về các chính sách đối ngoại, thúc đẩy hợp tác khoa học quốc tế nhằm làm giảm căng thẳng giữa các quốc gia, ngoại giao khoa học là phương pháp đã được áp dụng rộng rãi. Trên cơ sở ngoại giao khoa học, các nhà hoạch định chính sách môi trường đã tìm ra các giải pháp giúp giải quyết các vấn đề xung đột trong nhiều thập kỷ qua, và biện pháp này từng được nhiều quốc gia áp dụng để giải quyêt hòa bình các tranh chấp. Trong Chiến tranh Lạnh, hợp tác khoa học cũng từng được sử dụng để tạo cầu nối hợp tác và xây dựng lòng tin.

Như vậy, ngoại giao khoa học không phải là hướng tiếp cận mới trong quan hệ quốc tế. Vậy có thể áp dụng ngoại giao khoa học để giải quyết hiệu quả các tranh chấp tại Biển Đông hay không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể.

Trước hết, ngoại giao khoa học có thể giúp thúc đẩy xây dựng niềm tin giữa các bên liên quan trong tranh chấp tại Biển Đông, ngăn chặn căng thẳng leo thang tại khu vực. Khả năng ngoại giao khoa học có thể giúp giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông là khá cao, bởi vì đây là biện pháp được các nước lớn ủng hộ, đồng thời là biện pháp tin cậy. Hiện có nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai, vì đã có sự hợp tác trong trao đổi dữ liệu và thông tin của các nhà khoa học, và có sự đồng thuận đối với giá trị của các khu vực bảo tồn biển cùng sự gia tăng các nhóm nghiên cứu chung.

Các nhà khoa học Đông Nam Á và Trung Quốc cũng đã có sự quan hệ thông qua các dự án và hội thảo khoa học quốc tế. Như chương trình phát triển nghề cá tại Biển Đông của Liên Hợp Quốc từ những năm 1970 đến giữa những năm 1980.

Nhóm hoạt động “kênh 2” không chính thức từ những năm 1990 đến đầu những năm 2000 với sự tham gia của nhiều nhà khoa học khu vực, nhằm thúc đẩy khai thác chung nguồn tài nguyên một cách hòa bình tại Biển Đông. Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc và Quỹ môi trường toàn cầu cũng đã tài trợ cho các dự án quản lý và phân tích môi trường Biển Đông từ 2002-2009, hiện đang có những nỗ lực nhằm khởi động lại dự án này. Bên cạnh đó, các hoạt động xây dựng lòng tin khác cũng đang được thảo luận.

Các hoạt động hợp tác khoa học này là rất cần thiết, có thể giúp tìm ra biện pháp giải quyết các vấn đề đánh bắt cá tận diệt cũng sự xuống cấp của các rạn san hô vốn đã và đang diễn ra tại Biển Đông. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đưa ra chứng cứ thuyết phục về sự xuống cấp của các nguồn thủy hải sản với nhiều loại sinh vật biển có khả năng bị tuyệt chủng. Điển hình là các loài trai lớn, rùa biển, các loài có vú ở biển… do đó cần hành động ngay trước khi quá muộn.

Trên thực tế, Biển Đông cung cấp lương thực cho khoảng 1,9 tỉ người thuộc tất cả các quốc gia có có tuyên bố chủ quyền, do đó triển vọng về nguồn cá ở đây bị xuống cấp sẽ là lý do thuyết phục để các nước có trách nhiệm trong việc hợp tác bảo vệ môi trường sinh thái biển. Hiện các thách thức đối với vấn đề an ninh lương thực và tái sinh nguồn cá đang trở nên hết sức nghiêm trọng. Năm 2014, Trung tâm nghiên cứu đa dạng sinh thái cảnh báo rằng, khoảng 30-50% các loài sinh vật biển có thể sẽ bị tuyệt chủng vào giữa thế kỷ này.

Mặc dù các hoạt động hợp tác khoa học này không thể giúp giải quyết được các tranh chấp về chủ quyền, nhưng việc các nhà khoa học tập trung vào vấn đề bảo vệ môi trường và các nguồn thủy sản có thể tạo ra được tiếng nói chung cho tất cả các bên tranh chấp, vì các nước đều có lợi ích trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Cần khẳng định rằng, việc thực thi các sáng kiến quân sự và kinh tế, đặc biệt là các hoạt động biến các rạn san hô thành các tiền đồ quân sự là phi khoa học, được xem như là hành động nhằm thực thi tuyên bố chủ quyền.

Hầu hết các quốc gia ven Biển Đông đã xây dựng các khu vực bảo tồn biển để giải quyết các vấn đề về môi trường trong tương lai. Các khu bảo tồn biển đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế biển, giúp cải thiện đời sống cho các cộng đồng ngư dân ven biển, đây là mô hình chính sách khoa học lý tưởng. Nếu gác qua một bên các tuyên bố chủ quyền để cùng xây dựng các vùng khai thác chung như các nước từng làm ở Bắc Cực, sẽ tạo ra cơ sở để các nước áp dụng các biện pháp quản lý tài nguyên nhằm bảo vệ các nguồn thủy sản và đa dạng sinh học cũng như việc thúc đẩy du lịch bền vững.

Ngoại giao khoa học là hướng tiếp cận an toàn và trung lập. Điều này khác với hợp tác kinh tế và quân sự vốn liên quan nhiều tới định hướng chính sách đối ngoại. Vì thông qua hợp tác khoa học, tiến hành các hoạt động khảo sát nghiên cứu chung về biển, các nhà khoa học khu vực có thể cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách các dữ liệu, thông tin họ có được để làm cơ sở cho các quyết định có trách nhiệm liên quan đến Biển Đông. Như với Biển Đông, các nhà khoa học có thể hợp tác nghiên cứu biện pháp đánh bắt cá an toàn, cách bảo vệ các nguồn tài nguyên biển một cách an đúng đắn…

Như vậy, theo các chuyên gia này, ngoại giao khoa học có thể tạo ra triển vọng mới cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông đồng thời đem lại hy vọng kép, vừa có thể giúp bảo vệ môi trường sinh thái, vừa có thể giúp giảm căng thẳng tại khu vực./. 

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục

Tàu ngầm INS Arihant. (Nguồn: Hindustan Times)

Ấn Độ hạ thủy tàu ngầm hạt nhân thứ tư

Tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) thứ tư của Ấn Độ, được gọi là S4*, đã được hạ thủy tại Trung tâm Đóng tàu ở Visakhapatnam vào hôm 16/10.