Theo asia.nikkei.com, khả năng xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc đã được rất nhiều học giả và giới quan sát đề cập tới, với xu hướng được đo bằng các thuật ngữ lý thuyết và phần lớn các phân tích tập trung vào thời điểm chiến tranh có thể nổ ra. Nhưng câu hỏi quan trọng thực sự khá đơn giản: Ai sẽ thắng trong cuộc chiến đó?
Tất nhiên, không ai thực sự “thắng” trong một cuộc chiến lớn. Nhưng cách tốt nhất để tránh xảy ra chiến tranh là thuyết phục đối thủ tiềm năng rằng họ gần như chắc chắn sẽ là kẻ bại trận lớn nhất.
Cán cân quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ rất phức tạp và đòi hỏi phải tính toán về ngân sách, số lượng tàu chiến và máy bay, địa lý, hệ thống liên minh và công nghệ- đặc biệt là năng lực về tàu ngầm, an ninh mạng và không gian.
Hãy bắt đầu với đồng USD và Nhân dân tệ. Ngân sách quốc phòng của Mỹ khá minh bạch, ít nhất là về tổng số tiền rót cho ngân sách. Chi tiêu quốc phòng của Mỹ vào khoảng 714 tỷ USD trong tài khóa 2020 - và dự kiến có thể tăng lên 733 tỷ USD vào năm 2021.
Trong khi đó, dù không được công khai một cách rõ ràng, chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc chắc chắn thấp hơn, với ngân sách ước tính ở mức 1,36 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương 212,6 tỷ USD), tăng 6,8% so với năm trước.
[Chiến tranh giữa các vì sao phiên bản Mỹ và Trung Quốc]
Tuy nhiên, Trung Quốc không phải chi nhiều cho một lực lượng quân sự (gần như) gồm toàn những người tình nguyện mà không cần chế độ quân dịch, và các hoạt động quân sự của họ chủ yếu tập trung ở Đông Á chứ không dàn trải khắp toàn cầu như quân đội Mỹ.
Và một mức chi tiêu đáng kể cho quốc phòng của họ không xuất hiện trong “sổ sách công khai.” Nhìn chung, về nguồn lực Mỹ có lợi thế hơn, nhưng không quá áp đảo như vẻ bề ngoài.
Xét về số lượng tàu chiến đơn thuần, Trung Quốc đã dẫn trước Mỹ, với khoảng 350 tàu chiến so với 300 tàu chiến. Các nhà máy đóng tàu Trung Quốc hầu như tuần nào cũng cho xuất xưởng các tàu chiến mới, đặc biệt là tàu tên lửa tuần tra, tàu hộ tống và tàu khu trục nhỏ công nghệ tương đối thấp.
Tuy nhiên, các tàu của Mỹ vẫn lớn hơn, được trang bị hệ thống tấn công và phòng thủ tốt hơn, đồng thời được điều khiển bởi thủy thủ đoàn có kinh nghiệm hơn nhiều.
Ngoài ra, Mỹ có mạng lưới năng lực chỉ huy và kiểm soát rất tinh vi để liên kết các hệ thống phòng không tầm xa của họ với các tàu chiến mặt nước và tất nhiên là cả tàu ngầm.
Xét về địa lý chật hẹp của Đông Á, có thể nói Trung Quốc có lợi thế hơn một chút về số lượng các hệ thống thuần túy cả trên biển và trên không, trong khi Mỹ có lợi thế về chất lượng của hệ thống vũ khí.
Về mặt địa lý, Trung Quốc có lợi thế lớn trong một cuộc xung đột tiềm tàng với Mỹ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Đáng chú ý, Trung Quốc sẽ có thể hỗ trợ hậu cần cho các tàu chiến của họ dưới dạng nhiên liệu và đạn dược, cung cấp các cơ sở sửa chữa tàu chiến gần đó và đưa các thủy thủ lên hoặc xuống tàu một cách dễ dàng.
Đối với Mỹ, chuỗi cung ứng và nhân lực kéo dài sẽ cản trở các lực lượng Mỹ, ngay cả khi họ có các căn cứ ở gần đó.
Ngoài ra, chuỗi các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng trên khắp Biển Đông sẽ phần nào cân bằng với các căn cứ của Mỹ ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Guam. Tuy nhiên, Hải quân Mỹ không gọi khoảng 10 “đảo” của Trung Quốc là đảo nhân tạo, mà coi đó là các tàu sân bay không thể chìm.
Thật vậy, phần lớn tư duy chiến thuật và chiến lược trong chiến đấu của Mỹ tập trung nghiên cứu cách vô hiệu hóa các cơ sở này, với một ý tưởng là triển khai các lực lượng đặc biệt của Thủy quân lục chiến Mỹ- Marine Raiders- để tiêu diệt khả năng tấn công sớm trong một cuộc giao tranh. Mặc dù Mỹ sẽ cố gắng bù đắp những hạn chế về hậu cần về lâu dài của họ bằng cách lôi kéo các đồng minh, nhưng địa lý rõ ràng là một yếu tố có lợi cho Trung Quốc.
Còn các liên minh thì sao? Mỹ từ lâu đã tin rằng lợi thế so sánh lớn nhất của họ so với Trung Quốc là mạng lưới các đồng minh, đối tác và bạn bè trên khắp thế giới. Ở châu Á, Mỹ có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhật Bản- nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, Australia- lực lượng hải quân rất có năng lực, Hàn Quốc, Singapore và nhiều quốc gia khác.
Mỹ cũng đang thúc đẩy liên kết mạnh mẽ với Ấn Độ thông qua Nhóm Bộ Tứ (Quad) nhằm gắn kết cường quốc Nam Á này với Mỹ, Nhật Bản và Australia. Tuy nhiên, Mỹ có thể trông cậy vào các đối tác như vậy ở mức độ nào khi đối mặt với một cuộc tấn công của Trung Quốc là một câu hỏi đang lớn dần.
Ngoài ra, Trung Quốc đang ngày càng lấn lướt Mỹ và củng cố hệ thống quan hệ đối tác của họ. Sáng kiến Vành đai và Con đường được thiết kế để thực hiện mục tiêu đó và Trung Quốc đang mở rộng can dự vào cả châu Á và bờ biển phía Đông của châu Phi.
Quan trọng nhất, Bắc Kinh đang củng cố quan hệ với Nga (hai quốc gia thường xuyên tập trận chung), Iran (Trung Quốc vừa công bố đầu tư 400 tỷ USD vào quốc gia Trung Đông này), Pakistan và Philippines (Tổng thống Rodrigo Duterte dường như ngả về Trung Quốc trong nhiều vấn đề hơn là về phía Mỹ, quốc gia về mặt lý thuyết đã ký hiệp ước đồng minh với Manila.
Nhìn chung, các đồng minh của Mỹ lớn hơn, giàu hơn và có quân đội mạnh hơn, vì vậy là một lợi thế cho Washington. Tuy nhiên, khoảng cách này đang dần thu hẹp.
Cuối cùng và quan trọng nhất, chiến thắng trong một cuộc chiến tranh Mỹ-Trung sẽ bị chi phối rất nhiều bởi việc bên nào có công nghệ tốt nhất. Trong các lĩnh vực quan trọng như khả năng chống ồn của tàu ngầm, số lượng vệ tinh quân sự trong không gian, các công cụ mạng tấn công và phòng thủ và các phương tiện không người lái, Mỹ vẫn đang dẫn đầu.
Tuy nhiên, Trung Quốc đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách, đặc biệt là trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), tên lửa hành trình siêu thanh, không gian mạng và lĩnh vực điện toán lượng tử mới nổi.
Ủy ban Quốc gia về Trí tuệ Nhân tạo của Trung Quốc mới được thành lập là minh chứng cho điều này. Một lần nữa, lợi thế đang nghiêng về phía Mỹ nhưng không quá cách biệt như trước.
Nhưng như Công tước Wellington đã nói về trận Waterloo, một cuộc chiến với Trung Quốc sẽ là một “chiến thắng hay thất bại trong gang tấc”. Trong thập kỷ tới, khoảng cách đó sẽ thu hẹp và - nếu Mỹ không hành động - lợi thế sẽ nghiêng về Trung Quốc./.