Các học giả Trung Quốc vừa công bố báo cáo mang tên "Suy nghĩ về một trăm ngày xung đột Nga-Ukraine: Thế giới sẽ đi về đâu?" trong đó nghiên cứu và đánh giá nguồn gốc, tác động và ảnh hưởng của xung đột Nga-Ukraine từ các khía cạnh của trật tự quốc tế, quan hệ Mỹ-Trung, quan hệ Trung-Âu, quan hệ Trung-Nga.
Nội dung chính như sau:
Quan hệ Mỹ-Trung: Sự đối địch leo thang?
Một năm trước cuộc xung đột Nga-Ukraine, mô hình tương tác của quan hệ Mỹ-Trung đã có sự “chuyển dịch hệ thống." Washington tin rằng quan hệ Mỹ-Trung đã đi vào một "cuộc chiến kéo dài" trong trò chơi chiến lược, chính quyền Tổng thống Joe Biden quan tâm nhiều hơn đến cách hình thành một môi trường quốc tế có lợi cho "kiềm chế Trung Quốc," nhấn mạnh sự cần thiết phải ngăn chặn cạnh tranh chiến lược.
Tương ứng, Bắc Kinh cũng ngày càng cho rằng quan hệ Mỹ-Trung đã đi vào bế tắc trong trò chơi chiến lược.
[Quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc ghi nhận các tín hiệu tích cực]
Cạnh tranh và đấu tranh đã trở thành những từ trọng tâm thường dùng khi Washington và Bắc Kinh xử lý các mối quan hệ song phương.
Sự leo thang mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine mang lại khó khăn hơn đối với mối quan hệ song phương vốn đã rất khó khăn và mong manh.
Cuộc khủng hoảng và xung đột Nga-Ukraine càng làm trầm trọng thêm mối nghi ngờ lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ một cách rõ ràng.
Washington và Bắc Kinh có những khác biệt sâu sắc về nguồn gốc và nguyên nhân của cuộc xung đột Nga-Ukraine.
Bản chất của điều này là sự khác biệt lớn giữa hai bên về bản chất của trật tự quốc tế hiện tại và tầm nhìn của họ đối với sự phát triển trong tương lai.
Washington lên án chiến dịch quân sự của Moskva tại Ukraine vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và các chuẩn mực cơ bản trong quan hệ quốc tế; cáo buộc Trung Quốc không công khai lên án hành vi gây hấn của Nga.
Bắc Kinh nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine không chỉ là một vĩ độ và kinh độ lịch sử phức tạp, mà còn là sự mở rộng liên tục về phía Đông của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) kể từ sau Chiến tranh Lạnh đã bỏ qua những lo ngại về an ninh hợp lý của Nga.
Mỹ đã mạnh mẽ cung cấp hỗ trợ quân sự cho Ukraine, thông qua dự luật viện trợ trị giá 40 tỷ USD cho Ukraine, đồng thời áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế và cô lập ngoại giao chưa từng có đối với Nga.
Ngoài ra, các quan chức cấp cao của Nhà Trắng luôn nhắc lại rằng xung đột Nga-Ukraine sẽ không thay đổi nhận định của Mỹ rằng "Trung Quốc là đối thủ chiến lược quan trọng nhất của Mỹ."
Theo quan điểm của Bắc Kinh, Mỹ và phương Tây ý đồ thông qua cuộc xung đột này nhằm khôi phục sự thống trị đã suy yếu của họ đối với trật tự quốc tế, đảo ngược quỹ đạo phát triển quyền lực toàn cầu "Đông tăng, Tây giảm."
Sau khi Mỹ và phương Tây tung ra các biện pháp trừng phạt kinh tế và tài chính quy mô lớn đối với Nga, Washington cũng đe dọa Trung Quốc không giúp Nga thoát khỏi khó khăn, nếu không sẽ phải đối mặt với hậu quả nghiêm trọng.
Thượng viện và Hạ viện Mỹ đã thông qua cái gọi là "Đạo luật Trục," trong đó yêu cầu Bộ Ngoại giao Mỹ gửi báo cáo thường xuyên lên Quốc hội về hợp tác Trung-Nga và sự trợ giúp của Trung Quốc đối với Nga để tránh các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây.
Kể từ khi nổ ra xung đột Nga-Ukraine, Mỹ đã tăng tốc đáng kể hợp tác liên minh quân sự ở châu Âu và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bắc Kinh chỉ ra xu hướng "châu Á-Thái Bình Dương hóa" và thậm chí "toàn cầu hóa" của NATO do Mỹ dẫn đầu, điều này phản ánh ý định chiến lược của Mỹ nhằm gia tăng "kiềm chế kép" chống lại Trung Quốc và Nga và thúc đẩy một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Về sự tách rời và "tường lửa" tài chính, Xung đột Nga-Ukraine đã làm xấu thêm tình hình kinh tế tổng thể và an ninh kinh tế của Trung Quốc và Mỹ, đồng thời đẩy nhanh mức độ “tách rời” về công nghệ và chuỗi công nghiệp then chốt giữa hai bên.
Xung đột Nga-Ukraine làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng năng lượng và khủng hoảng lương thực, đồng thời khiến tình hình kinh tế thế giới vốn đã mong manh và mất cân bằng sau đại dịch trở nên trầm trọng hơn.
Giá hàng hóa tăng đã khiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) bị giằng co giữa các lựa chọn chính sách nhằm kiềm chế lạm phát cao và ngăn chặn suy thoái. Nhiều cơ quan phân tích kinh tế quốc tế đã đưa ra cảnh báo nước Mỹ sẽ xảy ra tình trạng lạm phát đình trệ hoặc thậm chí lại rơi vào khủng hoảng kinh tế.
Đối với nền kinh tế Trung Quốc, sự lan rộng của cuộc xung đột Nga-Ukraine và các biện pháp trừng phạt chưa từng có mà Mỹ và các nước phương Tây áp đặt lên Nga cùng các biện pháp trừng phạt thứ cấp đã trực tiếp chặn đầu tư và trao đổi kinh tế và thương mại giữa Trung Quốc và Ukraine, đồng thời hạn chế hoạt động thương mại và đầu tư bình thường trước chiến tranh giữa Trung Quốc và Nga. Hơn nữa, việc này đã làm gia tăng thêm rủi ro đối với an ninh lương thực của Trung Quốc.
Xung đột Nga-Ukraine không chỉ thúc đẩy xu hướng “tách rời” kinh tế Trung Quốc và Mỹ trong lĩnh vực công nghệ và chuỗi công nghiệp chủ chốt, mà còn tác động đáng kể đến quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ trong lĩnh vực tài chính.
Bắc Kinh đặc biệt lo ngại về hai bước đi của Mỹ. Một là Thượng viện gần đây đã thông qua phiên bản sửa đổi của Đạo luật Cạnh tranh Mỹ, đánh dấu bước tiến nhanh trong nỗ lực của cơ quan lập pháp Mỹ trong việc “tách rời” công nghệ và chuỗi công nghiệp chủ chốt của Trung Quốc.
Hai là việc Tổng thống Joe Biden tuyên bố chính thức khởi động Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF), đánh dấu việc Mỹ đang đẩy nhanh việc xây dựng liên minh "chuỗi cung ứng quan trọng loại trừ Trung Quốc."
Cùng với đó, Bắc Kinh phải đối mặt với áp lực lớn khi Mỹ và phương Tây đã phát động một cuộc chiến tài chính chưa từng có nhằm vào Nga, bao gồm cả việc Mỹ và các nước phương Tây đóng băng tài sản hơn 300 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Nga.
Bắc Kinh ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng và tính cấp bách của việc ngăn chặn và chống lại toàn diện "cuộc chiến tài chính" do Mỹ tiến hành chống lại Trung Quốc.
Làm thế nào để cải thiện một cách toàn diện “vũ khí tài chính” của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống lại Mỹ đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ Trung Quốc đặt ra.
Điều này cũng chỉ ra rằng xu hướng "tách rời" quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ đang tăng tốc từ nền kinh tế thực như công nghệ và chuỗi công nghiệp chủ chốt sang nền kinh tế ảo mà đại diện là tài chính và ngân hàng.
Sự tin cậy và hợp tác về kinh tế, chính trị Trung Quốc-châu Âu đối diện thử thách
Là cuộc đối đầu địa chính trị diễn ra ở châu Âu nhưng có tác động toàn cầu, xung đột Nga-Ukraine có tác động quan trọng và phức tạp đến quan hệ Trung Quốc-châu Âu.
Do sự hiểu biết khác nhau về bản chất của cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine và mối quan hệ lợi ích, có sự khác biệt về lập trường giữa Trung Quốc và châu Âu, khoảng cách lớn về kỳ vọng lẫn nhau và sự tin cậy lẫn nhau về chính trị đang đối mặt với thử thách.
Cuộc xung đột Nga-Ukraine và cuộc đấu tranh giữa trừng phạt và chống trừng phạt cho thấy sự mong manh của các hệ thống kinh tế, năng lượng và chuỗi cung ứng quốc tế hiện tại, tiếp tục phá hủy nền tảng của toàn cầu hóa kinh tế, và có tác động đến nền tảng kinh tế và con đường hợp tác của quan hệ Trung-Âu.
Các lực lượng chính như Mỹ, Nga và châu Âu đã tham gia vào cuộc xung đột theo những cách khác nhau và ở những mức độ khác nhau, một cục diện tương tác rất phức tạp đã xuất hiện trong quan hệ giữa các cường quốc.
Điều này đã làm trầm trọng thêm sự bất ổn của trật tự quốc tế trong thời kỳ chuyển đổi, và mối quan hệ Trung-Âu cũng chịu áp lực chiến lược lớn hơn.
Mặc dù xung đột Nga-Ukraine đã trở thành một nhân tố không xác định ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Âu, việc giải quyết xung đột một cách hòa bình sớm, tránh khủng hoảng nhân đạo, giảm thiệt hại về kinh tế và sinh kế của người dân, và duy trì sự ổn định của bối cảnh quốc tế là phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, bao gồm cả Trung Quốc và châu Âu, và sẽ trở thành định hướng cho các nỗ lực chung của cả hai bên.
Trung Quốc và châu Âu có sự khác biệt lớn trong nhận thức về nguyên nhân và bản chất của cuộc xung đột Nga-Ukraine, do đó đã áp dụng các lập trường khác nhau.
Theo quan điểm của châu Âu, có mâu thuẫn không thể hòa giải giữa ý thức tìm kiếm "vùng ảnh hưởng" của cường quốc Nga và xu hướng của các nước vừa và nhỏ tìm kiếm "bảo vệ an ninh tập thể," vốn đã trở thành nguồn gốc chính của xung đột Nga-Ukraine.
Nhận định của Trung Quốc về nguyên nhân và bản chất của xung đột Nga-Ukraine chủ yếu dựa trên góc nhìn về kiến trúc an ninh khu vực, cho rằng cuộc xung đột là hậu quả nghiêm trọng của cuộc đối kháng cạnh tranh nước lớn trên khía cạnh an ninh ở khu vực.
Do đó, Trung Quốc cho rằng các mối quan ngại về an ninh của Nga và Ukraine đều quan trọng như nhau và cần được tôn trọng và đối xử như nhau, mong muốn các nước châu Âu đóng vai trò chủ thể an ninh khu vực, không chỉ thực hiện các biện pháp giúp ngừng bắn và đình chiến, mà còn để thiết lập một cấu trúc an ninh khu vực cân bằng, hiệu quả và bền vững để tránh tái bùng phát xung đột và đạt được hòa bình và ổn định lâu dài.
Xung đột Nga-Ukraine xảy ra ngay trước cửa châu Âu và Trung Quốc không phải là bên liên quan trực tiếp nên việc hai bên có sự khác biệt về nhận thức và lập trường về xung đột là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, châu Âu phụ thuộc vào những định kiến và ảnh hưởng từ ý đồ của Mỹ, và đã đưa ra một số yêu cầu phi thực tế và khó thực hiện đối với Trung Quốc. Cụ thể là các nước châu Âu yêu cầu Trung Quốc công khai lên án Nga và tham gia vào các lệnh trừng phạt do châu Âu và Mỹ áp đặt đối với Nga.
Trong bối cảnh có khoảng cách lớn lập trường, cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên minh châu Âu (EU) gần đây đã cho thấy những mối quan tâm và mong muốn không đồng điệu, nhận thức và lập trường khác nhau về cuộc xung đột Nga-Ukraine đã trở thành trở ngại mới đối với sự thúc đẩy hợp tác song phương, vấn đề suy giảm lòng tin chính trị giữa Trung Quốc và châu Âu vẫn chưa có sự cải thiện.
Xung đột Nga-Ukraine đã trở thành “cuộc khủng hoảng địa chính trị nghiêm trọng nhất kể từ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc,” sự tác động đến trật tự thế giới và các quy tắc quốc tế vẫn đang tiếp tục gia tăng, hậu quả và tổn thất là khôn lường.
Sau hơn ba tháng, cuộc xung đột và đối đầu giữa trừng phạt và chống trừng phạt giữa các nước phương Tây và Nga đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định kinh tế, thương mại và năng lượng thế giới.
Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU dự kiến sẽ giảm hơn 2 điểm phần trăm vào năm 2022, và tác động đến nền kinh tế Trung Quốc cũng chủ yếu thể hiện ở sự biến động của thị trường chứng khoán, tài sản bị thu hẹp và giảm kỳ vọng tốc độ tăng trưởng.
Tác động của cuộc xung đột Nga-Ukraine đến hợp tác kinh tế thương mại Trung-Âu phức tạp hơn.
Một mặt, châu Âu đe dọa rằng nếu Trung Quốc “hỗ trợ quân sự cho Nga hoặc giúp Nga né tránh các lệnh trừng phạt,” họ sẽ “trừng phạt” Trung Quốc bằng các biện pháp thương mại.
Mặt khác, trên cơ sở suy diễn quá mức về “sự ràng buộc Trung-Nga,” dư luận châu Âu tái đề cao quan điểm “thoát khỏi sự phụ thuộc quá mức vào thị trường Trung Quốc để bảo vệ an ninh chuỗi cung ứng.”
Một số lực lượng bảo thủ ở châu Âu chủ trương “thoát khỏi sự phụ thuộc quá mức vào năng lượng của Nga và kinh tế của Trung Quốc" để thực hiện quyền tự chủ chiến lược.
Xu thế chính trị hóa và an ninh hóa các lĩnh vực kinh tế, thương mại Trung-Âu được đẩy mạnh hơn nữa, tác động mạnh đến nền tảng kinh tế-thương mại, lợi ích chung phụ thuộc lẫn nhau và đường lối chính sách hợp tác thiết thực của quan hệ Trung-Âu.
Có thể nói lòng tin chiến lược Trung-Âu đang chịu sức ép không nhỏ. Mỹ, Nga và châu Âu đều tham gia vào cuộc xung đột Nga-Ukraine theo những cách khác nhau và ở những mức độ khác nhau.
Tương tác giữa các cường quốc rất phức tạp và có dấu hiệu của một vòng phân hóa và kết hợp mới. Lòng tin chiến lược giữa Trung Quốc và châu Âu đã bị ảnh hưởng bởi đối đầu nhóm và chính trị cường quyền, không gian vận hành quan hệ Trung-Âu ngày càng bị hạn chế và có nhiều biến số.
Đối với các mục tiêu chiến lược của riêng mình, Mỹ và châu Âu không chỉ thống nhất lập trường đối với Nga mà còn tăng cường phối hợp chính sách về Trung Quốc bằng cách thổi phồng "liên minh Trung-Nga."
Với danh nghĩa "duy trì một trật tự dựa trên quy tắc," Mỹ sử dụng các cơ chế song phương như "Đối thoại Trung Quốc" Mỹ-Âu và "Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương," cũng như khuôn khổ NATO, không chỉ đòi hỏi thống nhất về tư duy mà còn cả những hành động phối hợp.
Mỹ không chỉ cố tình "giúp" châu Âu gia tăng đối lập với Trung Quốc về quan niệm và chế độ, mà còn khuyến khích châu Âu "tích cực" can thiệp vào châu Á-Thái Bình Dương, phối hợp cung cấp sự hỗ trợ cho chiến lược đối phó Trung Quốc của Mỹ ở ngoại vi của Trung Quốc. Áp lực chiến lược đối với quan hệ Trung-Âu tiếp tục gia tăng.
Về cơ hội hợp tác Trung-Âu, dưới ảnh hưởng và áp lực nêu trên, mối quan hệ Trung Quốc-EU không phải là không còn không gian hợp tác.
Thứ nhất, lập trường của Trung Quốc và châu Âu về xung đột Nga-Ukraine, mặc dù khác nhau, nhưng cũng có sự giao thoa. Trung Quốc và châu Âu cần có mục tiêu hợp tác và phương hướng nỗ lực chung nhằm đạt được ngừng bắn và giải quyết xung đột thông qua các biện pháp ngoại giao.
Thứ hai, cả Trung Quốc và châu Âu đều cam kết tránh và giảm thiểu các cuộc khủng hoảng nhân đạo do xung đột gây ra. Ngoài việc tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ như Liên hợp quốc và Chữ thập Đỏ quốc tế, Trung Quốc và châu Âu cũng có thể đưa viện trợ nhân đạo vào ưu tiên hợp tác trong chương trình nghị sự song phương.
Thứ ba, cả Trung Quốc và châu Âu đều hy vọng giảm tác động lan tỏa của các cuộc xung đột và cố gắng tránh các tác động quá mức đến nền kinh tế, năng lượng và an ninh chuỗi cung ứng của mỗi bên.
Trung Quốc và châu Âu là đối tác thương mại lớn nhất của nhau, với sự hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực đầu tư, công nghiệp và chuỗi cung ứng, đã chống lại tác động của dịch bệnh và thể hiện khả năng phục hồi mạnh mẽ.
Mặc dù châu Âu đã tham gia vào các lệnh trừng phạt Nga, nhưng do mối quan hệ kinh tế và thương mại chặt chẽ giữa châu Âu và Nga, đặc biệt là sự phụ thuộc lẫn nhau rất lớn về năng lượng, không những lệnh trừng phạt không hiệu quả mà châu Âu còn để lại hàng loạt hậu quả nghiêm trọng như lạm phát, thiếu năng lượng và thiếu tài nguyên.
Xu hướng trừng phạt gây tổn thất nhiều hơn cho châu Âu, Nga và thậm chí cả nền kinh tế thế giới ngày càng rõ nét. Trên quan điểm phản đối các biện pháp trừng phạt đơn phương và duy trì sự ổn định của nền kinh tế thế giới, Trung Quốc hy vọng rằng châu Âu sẽ có quan điểm bình tĩnh về hậu quả và ngừng lạm dụng các biện pháp trừng phạt, và nên tiến hành hợp tác thiết thực.
Cuối cùng, với tư cách là "hai lực lượng lớn" quan tâm đến việc duy trì hòa bình khu vực và thế giới, quan hệ Trung-Âu cần vượt ra ngoài hợp tác kinh tế và thương mại và phát triển các điểm hợp tác mới trong lĩnh vực quản lý khủng hoảng quốc tế và cải thiện quản trị toàn cầu trên cơ sở nâng cao lòng tin chiến lược lẫn nhau.
Nếu Trung Quốc và châu Âu có thể tiến hành từ những lập trường khác nhau nhưng có thể làm rõ các lợi ích chung và cùng hợp tác, thì xung đột hiện tại giữa Nga và Ukraine và quá trình tái thiết hòa bình trong tương lai có thể trở thành điểm khởi đầu quan trọng để Trung Quốc và châu Âu hiện thực hóa mối quan hệ hợp tác tăng giá trị.
Định hình lại logic của quan hệ Trung Quốc-Nga
Trong những năm gần đây, quan hệ Trung-Nga đã trở thành hình mẫu của quan hệ nước lớn với mức độ tin cậy lẫn nhau, mức độ phối hợp cao và có giá trị chiến lược cao. Tuy nhiên, môi trường bên ngoài của quan hệ Trung-Nga đang phải đối mặt với nhiều tác động.
Thứ nhất, trong bối cảnh xung đột Nga-Ukraine, mặc dù hệ thống quốc tế chưa rơi vào tình trạng sụp đổ hoàn toàn, nhưng sự mong manh và xu thế phân hóa cục bộ là không thể tránh khỏi.
Cụ thể là việc đình chỉ tư cách thành viên của Nga trong Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, trục xuất Nga khỏi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20).
Thứ hai, cơ hội và rủi ro cho đi sâu hợp tác thực chất đều tăng lên. Dưới ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và xung đột Nga-Ukraine, lợi ích của toàn cầu hóa dự kiến sẽ dần biến mất.
Khó có thể đảo ngược xu hướng vũ khí hóa tài chính, vũ khí hóa công nghệ và vũ khí hóa năng lượng, cũng như tái cấu trúc an ninh hóa các chuỗi công nghiệp, chuỗi cung ứng, chuỗi sáng tạo và chuỗi giá trị quốc tế. Nhu cầu các nước thiết lập "tường lửa" thương mại và "vành đai cách ly" công nghiệp sẽ tăng mạnh.
Về cơ hội, quan hệ Trung-Nga sẽ trở thành đòn bẩy cốt lõi để Nga thoát khỏi tình trạng bị cô lập chính trị, khó khăn kinh tế và phong tỏa công nghệ.
Nga sẽ càng có nhu cầu hợp tác mạnh mẽ hơn với Trung Quốc trong các lĩnh vực năng lượng, công nghệ, đầu tư, tài chính...
Thị trường, vốn, công nghệ và nhân tài của Trung Quốc có thể lấp đầy khoảng trống được tạo ra bởi sự "tách rời" của Mỹ và châu Âu với Nga.
Về rủi ro, sự dai dẳng của cuộc xung đột Nga-Ukraine đã khiến Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và các nước khác có cơ hội gia tăng các biện pháp trừng phạt Nga, sẽ làm tăng rủi ro bên ngoài đối với việc đi sâu hợp tác thực chất Trung-Nga.
Các doanh nghiệp hoặc cá nhân do Trung Quốc tài trợ phải đối mặt với nguy cơ bị "trừng phạt thứ cấp" khi hợp tác với Nga, bao gồm việc bị Mỹ đưa vào danh sách "Các công dân được chỉ định đặc biệt và những người bị phong tỏa" (SDN).
Việc ký kết hợp đồng các dự án của Nga ở nước ngoài, đầu tư xuyên biên giới và quyết toán... đều bị cản trở.
"Đường sắt Trung-Âu" đi qua Nga và Belarus có thể bị buộc phải cắt giảm. Hợp tác năng lượng và công nghệ cao với Nga phải đối mặt với "quyền tài phán dài hạn."
Thứ ba, định vị chiến lược và trọng tâm ngoại giao cần được điều phối khẩn trương. Đối với Nga, xung đột Nga-Ukraine sẽ dẫn đến một "sự phân chia" sâu sắc về tư tưởng và đạo đức giữa Nga và châu Âu.
Cùng với việc châu Âu đề xuất loại bỏ sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch của Nga vào năm 2027, tác động đòn bẩy của hợp tác năng lượng đối với quan hệ Nga-châu Âu đang đối mặt với việc chấm dứt.
Định hướng chiến lược của Nga có thể chuyển sang thế giới phi phương Tây, và "nhìn về hướng Đông" sẽ trở thành hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của nước này.
So với "đường lối ngoại giao" của Nga, đường lối ngoại giao của Trung Quốc vẫn kiên định xây dựng khuôn khổ cho quan hệ các nước lớn với sự ổn định tổng thể và phát triển cân bằng.
Trong cuộc chơi tương lai của các cường quốc giữa Trung Quốc, Nga, Mỹ và châu Âu, địa vị chủ động và khả năng vận hành của Nga sẽ thay đổi, và Trung Quốc và Nga sẽ phải đối mặt với sự điều phối lại trong định vị chiến lược và trọng tâm ngoại giao.
Trung Quốc và Nga (đặc biệt là Trung Quốc) và phương Tây phụ thuộc lẫn nhau rất cao về kinh tế và thương mại, khoa học công nghệ và nhân văn.
Năm 2021, ASEAN, EU, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc là năm đối tác thương mại hàng đầu của Trung Quốc, trong đó châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm 38% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc.
EU là đối tác thương mại số một của Nga, chiếm 37% tổng kim ngạch ngoại thương của Nga. Mặc dù thương mại Nga-EU có thể dần thu hẹp do các biện pháp như giảm sự phụ thuộc vào năng lượng Nga, nhưng quá trình này không thể hoàn thành trong một sớm một chiều.
Mặc dù một số quốc gia đề cao "chủ nghĩa dân tộc công nghệ," nhưng thế giới vẫn chưa tách ra thành hai hệ thống tách biệt về quy phạm khoa học và tiêu chuẩn kỹ thuật. Do đó, không có cơ sở vật chất khách quan để Trung Quốc và Nga xây dựng mặt trận thống nhất “chống phương Tây.”
Ngay cả ở mức độ ý chí chủ quan, dường như Trung Quốc và Nga đang ngày càng có sự đồng thuận "chống phương Tây." Điều này xuất phát từ việc siết chặt chiến lược toàn diện từ Mỹ và sự đối đầu về ý thức hệ ngày càng gia tăng, và đó là sự "Liên kết phòng thủ" ứng phó với các hành vi bắt nạt và các biện pháp trừng phạt đơn phương, chứ không phải là một mặt trận thống nhất mang tính tấn công với mục tiêu "chống phương Tây."
Mặt khác, sức mạnh nội sinh và giá trị độc lập của quan hệ Trung-Nga sẽ trở nên nổi bật hơn.
Trung Quốc và Nga là hai nước láng giềng lớn nhất của nhau, với đường biên giới dài tới 4.300km. Trung Quốc và Nga đều là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và là trụ cột duy trì hòa bình và ổn định quốc tế.
Trung Quốc và Nga đều là các nước thị trường mới nổi quan trọng, cơ cấu kinh tế và thương mại có tính bổ sung cao, kim ngạch thương mại song phương đã tăng từ 8 tỷ USD năm 2.000 lên 146,8 tỷ USD năm 2021.
Trung Quốc và Nga đều là lực lượng chủ chốt trong hợp tác khu vực và đa phương, dẫn đầu các cơ chế như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS), G20...
Như Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhấn mạnh: "Quan hệ Trung-Nga có sức mạnh nội sinh mạnh mẽ và giá trị độc lập, không bị ảnh hưởng bởi những sóng gió của tình hình quốc tế và không bị xáo trộn bởi bất kỳ yếu tố nào khác."
Với tư cách là hai nước láng giềng lớn nhất, Trung Quốc và Nga chia sẻ môi trường địa chính trị và gánh vác trách nhiệm quốc tế, có ưu thế so sánh và tính bổ sung phát triển cho nhau.
Hai nước là động lực nội sinh cho sự phát triển nhanh chóng của quan hệ song phương, và những "yếu tố bất biến" này sẽ không bị ảnh hưởng bởi xung đột Nga-Ukraine.
Tầm nhìn cho sự phát triển tương lai của mối quan hệ Trung-Nga
Có thể khẳng định rằng sự phân hóa và kết hợp của các lực lượng toàn cầu, sự phân chia và tái thiết trật tự thế giới, sự va chạm và dung hợp của các xu hướng hệ tư tưởng, và sự hỗn loạn và thay đổi trên thế giới sẽ tiếp tục gia tăng do tác động lan tỏa của cuộc xung đột Nga-Ukraine.
Làm thế nào để đối phó với những thách thức mới trong hệ thống quốc gia, trật tự thế giới và quản trị toàn cầu trong thời kỳ "hậu xung đột" sẽ trở thành nhiệm vụ ưu tiên đối với sự phát triển của quan hệ Trung-Nga.
Hai nước sẽ cần tăng cường phối hợp mang tính xây dựng ở cấp độ toàn cầu và đa phương, trở thành “người ổn định” trong tình hình hỗn loạn. Hợp tác chiến lược Trung-Nga tuy là quan hệ song phương, nhưng có ý nghĩa toàn cầu và liên quan trực tiếp đến sự ổn định của khu vực và thế giới.
Tóm lại, xung đột Nga-Ukraine có thể khiến sự đồng thuận hiện có giữa Trung Quốc và Nga đối mặt với một "khảo nghiệm áp lực", điều phối lại định vị chiến lược và trọng tâm ngoại giao, và dẫn đến sự tồn tại của cả cơ hội và rủi ro cho việc hợp tác thực chất.
Tuy nhiên, cuộc xung đột sẽ không định hình lại logic nội tại của sự phát triển quan hệ song phương Trung-Nga, cũng không dẫn đến sự xuất hiện của một liên minh "chống phương Tây," và sẽ không ảnh hưởng đến vấn đề lòng tin giữa Trung Quốc và Nga.
Động lực nội sinh và giá trị độc lập của mối quan hệ Trung-Nga sẽ trở nên nổi bật hơn. Tăng cường sự hiệp đồng mang tính xây dựng ở cấp độ toàn cầu và đa phương, vạch rõ điều kiện trong sự tin cậy lẫn nhau "không có giới hạn" và nêu bật định hướng giá trị, là chìa khóa để quan hệ Trung-Nga phát triển chuyển sang cấp độ cao hơn và chất lượng cao hơn./.