Vì sao gánh nặng bệnh thận mạn ngày càng gia tăng ở Việt Nam?

Hiện nay, ước tính cả nước có hơn 10 triệu người mắc bệnh thận mạn, chiếm 10,1% dân số và căn bệnh này đứng thứ 8 trong số 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại Việt Nam.
Bệnh nhân chạy thận nhân tạo. (Nguồn: TTXVN)

Hai năm nay, cứ hằng tháng, chị Nguyễn Thị Huệ, 41 tuổi ở huyện Trạm Tấu, Yên Bái lại phải xuống Hà Nội để điều trị bệnh thận.

Từ khi phát hiện mắc bệnh thận, tháng nào chị cũng phải vượt chặng đường gần 300km để xuống Bệnh viện Bạch Mai điều trị. Có những tháng chị phải thuê nhà trọ, ở lại chạy thận vài ngày mới về. Con còn nhỏ, kinh tế eo hẹp nên từ khi mắc bệnh, gia đình chị khá chật vật.

Thực tế hiện nay, Việt Nam có hơn 10 triệu người mắc bệnh thận mạn, chiếm 10,1% dân số. Bệnh thận mạn đứng thứ 8 trong số 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại Việt Nam. Số ca mới được chẩn đoán mỗi năm khoảng 8.000 ca.

Gánh nặng bệnh thận mạn

Tại buổi tọa đàm “Góc nhìn đa chiều trong ứng dụng tiến bộ y khoa về quản lý bệnh thận mạn” do Tổng hội Y học Việt Nam và Công ty Trách nhiệm hữu hạn AstraZeneca phối hợp tổ chức, Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Khoa Diệu Vân - Phó Chủ tịch Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam, cho biết bệnh thận mạn là bệnh lý thầm lặng ngày càng tăng trên thế giới và tại khu vực châu Á, với trên 840 triệu người mắc trên thế giới, chiếm 11-13,4% dân số, trong đó 2/3 gánh nặng tập trung ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.

"1,2 triệu người tử vong do bệnh thận mạn mỗi năm, cộng thêm 1,4 triệu người có bệnh tim mạch tử vong do suy giảm chức năng thận, trên 2 triệu người tử vong do không tiếp cận được lọc thận," Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Khoa Diệu Vân dẫn chứng và cho biết suy giảm chức năng thận dẫn đến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ biến cố tim mạch và tử vong, đồng thời làm giảm chất lượng sống.

Kiểm tra quá trình chạy thận cho bệnh nhân. (Nguồn: TTXVN)

Cùng nhận định, Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Thị Xuyên - Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam cho biết hiện nay, gánh nặng toàn cầu của bệnh thận mạn đang gia tăng nhanh chóng và được dự đoán sẽ trở thành nguyên nhân thứ 5 gây mất số năm sống trên toàn thế giới vào năm 2040. Một điều đáng lưu ý là gánh nặng của bệnh thận mạn tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, trong đó có Việt Nam.

Số ca bệnh cần lọc máu khoảng 800.000 bệnh nhân nhưng hiện tại Việt Nam mới chỉ có 5.500 máy phục vụ 33.000 bệnh nhân. Theo thống kê, 50% bệnh nhân chạy thận nhân tạo tử vong trong vòng 5 năm, với chi phí y tế cho điều trị lọc máu tăng gấp 3 lần chi phí quản lý bệnh thận mạn ở giai đoạn sớm.

Cần chẩn đoán và can thiệp sớm

Theo Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Khoa Diệu Vân, hiện nay, bệnh thận mạn vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Phó giáo sư-tiến sỹ Diệu Vân cũng cho hay trên thực tế, việc chẩn đoán, điều trị sớm bệnh thận mạn vẫn còn nhiều khó khăn. Về phía bệnh nhân, không thấy triệu chứng rõ rệt ở giai đoạn sớm, không hiểu vể nguy cơ bệnh thận của mình nên hầu hết đến viện trong giai đoạn muộn.

[Người bị bệnh thận có nguy cơ tử vong cao hơn nếu mắc COVID-19]

"Gần như khi đi kiểm tra, khám sức khỏe, chưa có bệnh nhân nào nói với bác sỹ kiểm tra bệnh thận. Điều này lý giải vì sao chỉ có 4,5-15,5% người lớn mắc bệnh thận mạn được chẩn đoán. Thường thì khi phát hiện, bệnh nhân đã sang giai đoạn 3 hoặc 4," bà Vân nói.

Cũng theo chuyên gia này, chỉ có 5% số người trưởng thành được phát hiện mắc bệnh ở giai đoạn 3, phần lớn bệnh được phát hiện khi đã ở giai đoạn 4 và 5 phải điều trị thay thế thận. Dự kiến đến năm 2030, có 5 triệu người cần thay thế thận. Do đó, việc chẩn đoán và can thiệp sớm bệnh thận mạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn xã hội.

Bệnh nhân chạy thận nhân tạo tại một bệnh viện. (Nguồn: TTXVN)

Theo các chuyên gia, đã có các thử nghiệm lâm sàng lớn về kiểm soát bệnh thận mạn được công bố trên thế giới, trong đó có nhóm thuốc ức chế SGLT-2i.

Nghiên cứu DAPA-CKD, một thử nghiệm lâm sàng toàn cầu khảo sát tác dụng của thuốc Dapagliflozin thuộc nhóm thuốc này trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn đến từ các quốc gia khác nhau, trong đó có cả bệnh nhân Việt Nam, đã được công bố và cho thấy hiệu quả giảm 39% nguy cơ tiến triển của bệnh và giảm 31% nguy cơ tử vong trên các đối tượng mắc bệnh này.

Các chuyên gia cũng nhìn nhận sau 20 năm, các nghiên cứu như nghiên cứu DAPA-CKD đã mở ra hướng đi mới trong việc quản lý bệnh thận mạn từ lúc bệnh còn ở giai đoạn sớm. Hiện thuốc này đã được Bộ Y tế Việt Nam phê duyệt sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính với chỉ định từ bác sỹ điều trị.

Tại tọa đàm, các giải pháp tăng cường việc chẩn đoán bệnh thận mạn ở giai đoạn sớm bằng các xét nghiệm có độ phát hiện cao cũng đã được đưa ra phân tích, trong đó cũng có kiến nghị xem xét triển khai những giải pháp này từ các tuyến y tế cơ sở để có thể phát hiện và can thiệp bệnh sớm hơn.

Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam Nguyễn Thị Xuyên nhấn mạnh trong những năm gần đây, Bộ Y tế khuyến khích triển khai và phát triển các nghiên cứu lâm sàng, đồng thời xây dựng các hướng dẫn điều trị quốc gia dựa trên kết qủa nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng chăm sóc người bệnh.

Đến nay, Việt Nam đã và đang trở thành một trong các điểm nghiên cứu quan trọng, tham gia vào chương trình phát triển lâm sàng toàn cầu trên nhiều lĩnh vực với sự đóng góp nhiều đối tượng cho các nghiên cứu bản lề, đặc biệt với mảng bệnh lý tim mạch-thận-chuyển hóa nói chung và bệnh thận mạn nói riêng./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục