John Pilger, một cựu phóng viên chiến trường sống tại London và đã hai lần đoạt giải báo chí cao nhất của Anh, vừa có một bài viết về mối quan hệ giữa các lực lượng mang màu sắc cực đoan như Nhà nước Hồi giáo IS (ISIS, ISIL), Khmer Đỏ với chính sách đối ngoại của Mỹ và phương Tây, đăng trên trang RT của Nga. Vietnam+ xin được giới thiệu với độc giả về bài viết này.
“Khi truyền tải lại mệnh lệnh của Tổng thống Mỹ Richard Nixon về việc ném bom “quy mô lớn” nhằm vào Campuchia trong năm 1969, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã nói câu nổi tiếng: “Không kích bất kỳ thứ gì di chuyển”.
Khi Tổng thống Barack Obama phát động cuộc chiến tranh thứ 7 của ông chống lại thế giới Hồi giáo kể từ lúc được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 2009, những lời nói dối qua dàn dựng của ông sẽ khiến người ta không khỏi nhớ tới sự thành thật đầy chết chóc của Kissinger.
ISIS cũng giống như Khmer Đỏ
Với tư cách một nhân chứng đã thấy tận mắt hậu quả con người phải hứng chịu sau các màn bắn phá điên loạn từ trên không - bao gồm việc các nạn nhân bị đứt đầu, mảnh thi thể của họ bắn lên những cái cây, những cánh đồng – tôi không ngạc nhiên trước việc người ta lại coi nhẹ ký ức và lịch sử thêm một lần nữa.
Một ví dụ sinh động là sự trỗi dậy của Pol Pot và Khmer Đỏ, lực lượng khá giống phong trào Nhà nước Hồi giáo (ISIS) tự xưng hiện đại. Họ đều là những kẻ tàn nhẫn có niềm tin từ thời Trung cổ, với khởi điểm là những lực lượng nhỏ. Họ đều là sản phẩm của một hoạt động tàn phá do Mỹ thực hiện.
Theo Pol Pot, phong trào của ông này có xuất phát điểm chỉ gồm “chưa đầy 5.000 du kích có vũ trang tồi, không rõ ràng về chiến lược, chiến thuật, sự trung thành và lãnh đạo”. Tuy nhiên ngay khi những chiếc máy bay B-52 của Nixon và Kissinger bắt đầu hoạt động oanh kích Campuchia, Pol Pot đã không thể tin nổi vào sự may mắn mà ông ta có được.
Trong giai đoạn 1969 tới 1973, người Mỹ đã ném lượng bom tương đương 5 quả bom nguyên tử xuống các vùng nông thôn Campuchia. Họ đã san phẳng nhiều làng mạc và vẫn trở lại để tiếp tục ném bom các đống đổ nát cùng xác chết.
“Sợi dây chuyền chết chóc” hình thành từ các miệng hố bom có thể nhìn rõ từ trên không. Sự kinh hoàng ở dưới mặt đất đã vượt xa mọi tưởng tượng.
Một cựu quan chức Khmer Đỏ kể rằng những người sống sót sau các cuộc không kích thường trở nên “thẫn thờ, bước đi vô định và câm nín trong suốt 3 đến 4 ngày liền”. Kinh hãi và điên dại, người dân đã tin vào những gì Khmer Đỏ nói với họ. Lực lượng này đã dễ dàng có được lòng dân.
Ước tính từ cuộc điều tra do Ủy ban chính phủ Phần Lan thực hiện cho thấy có 600.000 người Campuchia đã chết trong cuộc nội chiến diễn ra ở nước này. Báo cáo đánh giá hoạt động đánh bom của Mỹ là “giai đoạn đầu trong một thập kỷ diệt chủng”. Những gì Nixon và Kissinger khởi đầu, Pol Pot và tay sai đã hoàn tất nốt. Dưới bom Mỹ, Khmer Đỏ lớn mạnh thành một đạo quân đáng gờm lên tới 200.000 người.
Bush và Blair đã phá tan sự thanh bình
ISIS có chung một quá khứ và hiện tại như thế. Theo các học giả, cuộc xâm lược của Mỹ và Anh vào Iraq hồi năm 2003 đã dẫn tới cái chết của khoảng 700.000 người, tại một đất nước không hề có lịch sử cực đoan.
Ở Iraq, người Kurd đã đạt được các thỏa thuận về chính trị và lãnh thổ. Người Hồi giáo Sunni và Shiite có những khác biệt về sắc tộc và đẳng cấp, nhưng họ vẫn hòa hoãn với nhau. Hoạt động kết hôn giữa người Sunni và Shiite diễn ra thường xuyên.
Ba năm trước khi diễn ra cuộc xâm lăng, tôi đã lái xe dọc theo chiều dài Iraq mà chẳng sợ gì. Trên đường, tôi gặp nhiều người Iraq, rất tự hào vì được là dân Iraq.
Tổng thống Mỹ George W. Bush và Thủ tướng Anh Tony Blair khi đó đã phá tan sự thanh bình này. Iraq giờ là cái tổ của hoạt động cực đoan. Al-Qaeda, như những kẻ cực đoan của Pol Pot, đã nắm lấy cơ hội mang tới từ chiến dịch Sốc và sợ hãi do Anh-Mỹ phát động, cũng như cuộc nội chiến hình thành sau đó, để trỗi dậy.
“Các tay súng chống đối” ở Syria còn được trao cho các phần thưởng lớn hơn, với Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) và các nước vùng Vịnh thi nhau đổ vũ khí, khí tài và tiền bạc vào đây qua ngả Thổ Nhĩ Kỳ. Sự xuất hiện của các tay súng mới từ nước ngoài là điều khó tránh khỏi.
Đã 23 năm kể từ khi cơn ác mộng diệt chủng này hình thành tại Iraq, ngay sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh đầu tiên, khi Mỹ và Anh chiếm lấy Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và triển khai các lệnh cấm vận mang tính trừng phạt nhằm vào người dân Iraq.
Nghiệt ngã thay, việc này đã củng cố quyền lực của Saddam Hussein. Đó là một sự vây hãm kiểu Trung cổ. Gần như mọi thứ có thể nuôi dưỡng một nhà nước hiện đại đã bị chặn lại, từ chlorine để làm nước sạch cho tới bút chì dùng trong các trường học, linh kiện máy X-quang, thuốc giảm đau, thuốc chống ung thư hình thành từ đạn Uranium nghèo nằm lại tại các chiến trường miền Nam Iraq.
Ngay trước Giáng Sinh 1999, Bộ Thương mại và công nghiệp London đã giới hạn hoạt động xuất khẩu vắc xin được dùng để bảo vệ trẻ em Iraq chống các căn bệnh như sốt vàng da và bệnh bạch cầu. Kim Howells, một viên bác sĩ và là Thứ trưởng Ngoại giao trong chính quyền Blair giải thích rằng nguyên nhân do các loại vắc xin có thể được dùng trong vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chính quyền Anh đã thoát khỏi những hành động đáng phẫn nộ như thế vì báo chí đưa tin về Iraq khi đó – dưới sự thao túng của Bộ Ngoại giao Anh – đã đổ sạch mọi lỗi lầm cho Saddam Hussein.
Dưới cái mác chương trình “nhân đạo” Đổi dầu lấy lương thực, mỗi người Iraq gần như chỉ được trao cho có 100 USD để sống trong 1 năm trời. Số tiền này hoàn toàn không đủ.
“Hãy tưởng tượng” - Trợ lý Tổng thư ký LHQ Hans Von Sponeck từng nói với tôi - “việc bị đẩy vào trong bối cảnh thiếu nước sạch với đa số người ốm không được chữa bệnh, cũng như gánh nặng tâm lý của việc phải sống mòn mỗi ngày và anh sẽ thấy được một phần cơn ác mộng. Và hãy đừng nhầm lẫn, vì chuyện này do cố ý mà ra.”
Kinh tởm trước thực tế, Von Sponeck đã từ chức Điều phối viên nhân đạo của LHQ ở Iraq. Người tiền nhiệm của ông là Denis Halliday, một con người đầy danh dự, cũng đã từ chức. “Tôi được hướng dẫn việc thực thi một chính sách làm thỏa mãn định nghĩa diệt chủng: một chính sách về cơ bản đã sát hại hơn 1 triệu người, gồm người lớn và trẻ em” - ông Halliday nói.
Một nghiên cứu của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc thấy rằng từ năm 1991 tới năm 1998, thời kỳ đỉnh cao của hoạt động cấm vận, đã có hơn 500.000 trẻ dưới 5 tuổi ở Iraq thiệt mạng. Một phóng viên truyền hình Mỹ hỏi bà Madeleine Albright, Đại sứ Mỹ ở LHQ, rằng liệu cái giá này có đáng không và bà Albright trả lời “Có”.
Tại sao không thể đàm phán?
Ngày 25/9 năm nay, một bài báo đăng trên tờ Guardian giật tít như sau: “Đối mặt với nỗi kinh sợ của ISIS, chúng ta phải hành động”. Cụm từ “chúng ta phải hành động” là một sự lên gân giả tạo. Nó giống như tín hiệu cảnh báo về hoạt động đè nén ký ức cũ, chối bỏ các bài học mà người ta đã thu được và không có chút hối tiếc hay hổ thẹn nào.
Tác giả bài báo này là Peter Hain, cựu quan chức ngoại giao phụ trách vấn đề Iraq dưới thời Blair. Năm 1998, khi Denis Halliday hé lộ những khổ sở của người dân Iraq mà chính quyền Blair cũng phải chịu trách nhiệm, Hain đã xuất hiện trên chương trình Newsnight của đài BBC, cáo buộc ông là người “xin lỗi thay cho Saddam”.
Năm 2003, Hain ủng hộ cuộc xâm lăng của Anh Mỹ vào Iraq, vốn dựa trên những lời nói dối trắng trợn. Nay ông ta lại yêu cầu việc “không kích, dùng máy bay không người lái, chuyển trang thiết bị quân sự và những sự hỗ trợ khác” cho những người “đang đối mặt với nguy cơ bị diệt chủng” ở Iraq và Syria.
Ngày bài báo của Hain xuất hiện, Denis Halliday và Hans Von Sponeck đều ở London và họ đã gặp tôi. Họ đã không hề sốc trước tính đạo đức giả chết người của một chính trị gia, nhưng lên án sự thiếu vắng của một hoạt động ngoại giao thông minh nhằm giúp mang tới việc ngừng bắn. Trên khắp thế giới, từ Bắc Ireland tới Nepal, những người từng coi nhau là khủng bố, là kẻ thù không đội trời chung, đều đã ngồi vào bàn đàm phán. Tại sao điều này không thể diễn ra ở Iraq và Syria?
Giống dịch bệnh Ebola từ Tây Phi, một vi khuẩn có tên “chiến tranh không ngừng” đã đi qua Đại Tây Dương. David Richards, người cho tới gần đây vẫn lãnh đạo quân đội Anh, giờ còn muốn đưa quân tới chiến trường. Có một sự đồng lõa giữa David Cameron, Barack Obama và “liên minh ý nguyện” khi họ kê thêm các liều bạo lực, được chuyển xuống từ độ cao 10.000 mét, tới những nơi mà máu hình thành từ các cuộc phiêu lưu trước chưa bao giờ khô.
Tuy nhiên chuyện này chẳng có gì mới, như tài liệu tình báo bị rò rỉ dưới đây cho thấy: “Để hoạt động của lực lượng giải phóng trở nên dễ dàng hơn... cần dùng các đơn vị đặc biệt để tiêu diệt một số cá nhân quan trọng chủ chốt và gây ra bất ổn nội bộ ở Syria. Cục tình báo trung ương đã được chuẩn bị và SIS (MI6) sẽ tiến hành các hoạt động phá hoại nhỏ và các vụ tấn công chớp nhoáng trong Syria... tạo ra mức độ sợ hãi cần thiết... các vụ đụng độ qua dàn dựng ở vùng biên sẽ mang tới cơ sở để tiến hành can thiệp... CIA và SIS cần sử dụng... khả năng trên cả lĩnh vực tâm lý và hoạt động ngoài chiến trường để tạo căng thẳng”. Những dòng này được viết vào năm 1957, dù khi đọc nó người ta tưởng mới được viết vào ngày hôm qua.
Trong thế giới đế quốc, gần như chẳng có gì thay đổi. Năm ngoái, cựu Ngoại trưởng Pháp Roland Dumas tiết lộ rằng “2 năm trước các cuộc nổi dậy mùa Xuân Arab”, ông được thông báo tại London rằng một cuộc chiến ở Syria đã được lên kế hoạch.
“Tôi sẽ cho các bạn biết một điều” – ông nói trong cuộc phỏng vấn với kênh LPC của Đài truyền hình Pháp – “Tôi đã ở Anh 2 năm trước khi bạo lực Syria diễn ra. Tôi đã gặp các quan chức Anh, những người cho tôi biết rằng họ đang chuẩn bị một số thứ ở Syria... Anh đang tổ chức một cuộc xâm chiếm của các chiến binh nổi dậy vào Syria. Họ thậm chí còn hỏi tôi có muốn tham gia không, dù tôi đã không còn là Ngoại trưởng nữa... Chiến dịch này đã được chuẩn bị, thai nghén và lên kế hoạch trước”
Đối thủ hiệu quả duy nhất của ISIS, nghiệt ngã thay lại là những quốc gia và lực lượng bị phương Tây căm ghét như Syria, Iran, Hezbollah. Yếu tố gây trở ngại là Thổ Nhĩ Kỳ, một “đồng minh” và là thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây dương (NATO). Nước này đã đồng lõa với CIA, MI6 và những tổ chức khác ở vùng Vịnh để hỗ trợ các “chiến binh nổi dậy” Syria, gồm những kẻ giờ đã tự nhận mình là ISIS.
Hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ trong việc thực hiện tham vọng lâu nay là trở thành quốc gia thống trị khu vực, thông qua việc lật đổ chính quyền Syria, đã báo hiệu về việc sẽ xảy ra một cuộc chiến quy ước lớn, phá nát một quốc gia đa dạng sắc tộc nhất Trung Đông.
Một lệnh ngừng bắn – dù khó thực hiện – là lối thoát duy nhất khỏi mê cung này. Nếu không, hoạt động cắt đầu sẽ tiếp tục diễn ra.
Cùng lệnh ngừng bắn, cần phải ngừng ngay việc chuyển các loại vật liệu phục vụ chiến tranh tới Israel và công nhận nhà nước Palestine. Vấn đề Palestine là vết thương mở gây nhức nhối nhất khu vực, góp phần giúp chủ nghĩa cực đoan trỗi dậy.
Cách đây hơn 40 năm, việc Nixon-Kissinger ném bom Campuchia đã tạo ra làn sóng khổ đau khiến đất nước này chưa từng gượng dậy được. Điều tương tự đã diễn ra ở Iraq sau tội ác của Blair-Bush. Gần đây, Henry Kissinger lại ra một cuốn sách với cái tên thật châm biếm: “Trật tự thế giới”.
Một bài viết đánh giá cuốn sách đã nịnh hót Kissinger, gọi ông ta là “nhân vật chủ chốt đã định hình một trật tự thế giới vẫn ổn định trong 1/4 thế kỷ. Hãy nói điều này với nhân dân Campuchia, Việt Nam, Lào, Chile, Đông Timor và các nạn nhân khác của ông ta. Chỉ khi “chúng ta” nhận ra những kẻ phạm tội ác chiến tranh trong hàng ngũ của mình, khi đó máu mới có thể bắt đầu khô”./.