Tiếp theo chương trình làm việc kỳ họp thứ 4 Quốc hội Khóa XIV, ngày mai (10/11), Quốc hội sẽ tiến hành thảo luận đối với dự thảo Luật Đo đạc và Bản đồ do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì soạn thảo.
Theo nội dung dự thảo, đo đạc và bản đồ là hoạt động điều tra cơ bản, đặc biệt quan trọng, làm nền tảng để triển khai các nghiên cứu khoa học về trái đất, cung cấp dữ liệu cơ bản phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh...
Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận định, công tác quản lý nhà nước và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ trong thời gian vừa qua còn một số tồn cần phải khắc phục.
Cụ thể, hoạt động điều tra cơ bản còn thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong quản lý, cũng như triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển khoa học công nghệ.
Hoạt động đo đạc và bản đồ còn chồng chéo, lãng phí. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trong xây dựng, quản lý và triển khai các hoạt động đo đạc và bản đồ chưa chặt chẽ, chưa thống nhất dẫn đến trên cùng một khu vực còn xảy ra hiện tượng đo đạc chồng chéo, lãng phí thời gian, kinh phí.
[Tuần lễ về Trắc địa thế giới năm 2019 sẽ được tổ chức tại Việt Nam]
Việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương chưa phù hợp. Theo quy định hiện hành, hầu hết các nhiệm vụ đo đạc và bản đồ cơ bản thuộc trách nhiệm tổ chức triển khai của cơ quan quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ tại Trung ương.
Do đó, xảy ra tình trạng khi cần các dữ liệu đo đạc và bản đồ phục vụ cho quản lý, quy hoạch, phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, đặc biệt là tại các đô thị có sự phát triển nhanh chóng thì Trung ương không đáp ứng kịp thời. Trong khi đó, phần lớn các địa phương hoàn toàn có đủ năng lực quản lý cũng như nguồn lực để đầu tư, tổ chức triển khai.
Mặt khác, chính sách phát triển, quản lý công trình hạ tầng đo đạc hiện nay chưa rõ về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; hạ tầng đo đạc chưa thống nhất, đồng bộ, kết nối do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay.
Ngoài ra, các sản phẩm, thông tin, dữ liệu đo đạc và bản đồ hiện nay cũng đang được lưu giữ phân tán ở nhiều nơi, chưa có hệ thống quy chuẩn thống nhất, chưa được tích hợp liên thông để chia sẻ, dùng chung; việc khai thác, tiếp cận dữ liệu của các tổ chức, người dân đối với một số loại dữ liệu còn khó khăn.
Hiện tại, cơ chế chính sách về hoạt động đo đạc bản đồ cũng chưa đổi mới, chưa theo kịp với thành tựu của khoa học công nghệ hiện nay, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; mặc dù Nhà nước đã có chính sách xã hội hóa các hoạt động đo đạc và bản đồ nhưng chưa có cơ chế rõ ràng để thúc đẩy phát triển.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, những hạn chế trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng mẫu chốt là chưa có sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về đo đạc và bản đồ. Trong khi, một số hoạt động đo đạc bản đồ chuyên ngành đã được quy định rải rác trong các văn bản Luật như: đất đai, xây dựng, xuất bản...
Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng nhận định, trong bối cảnh tình hình an ninh, quốc phòng khu vực cũng như trên thế giới hiện nay có nhiều phức tạp, việc xây dựng một đạo luật để quản lý thống nhất, có hiệu quả hoạt động đo đạc và bản đồ là yêu cầu cấp bách và thực tiễn khách quan./.
Dự thảo Luật đo đạc và bản đồ gồm 63 điều thể hiện trong 9 chương:
Chương I quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật. Chương II quy định về nội dung hoạt động đo đạc và bản đồ cơ bản; các mạng lưới đo đạc quốc gia; hệ thống không ảnh; cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia, bản đồ địa hình quốc gia.
Chương III quy định về nội dung hoạt động đo đạc và bản đồ chuyên ngành; đo đạc và bản đồ quốc phòng; đo đạc, thành lập bản đồ địa chính. Chương IV quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong hoạt động đo đạc và bản đồ; kiểm định thiết bị sử dụng trong hoạt động đo đạc và bản đồ; quản lý chất lượng sản phẩm đo đạc và bản đồ.
Chương V quy định về hệ thống công trình hạ tầng đo đạc; xây dựng công trình hạ tầng đo đạc; sử dụng mốc đo đạc và bảo vệ công trình hạ tầng đo đạc. Chương VI quy định về thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ; hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia; xuất bản bản đồ.
Chương VII quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân hoạt động đo đạc và bản đồ; chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ; giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ; hoạt động đo đạc và bản đồ của tổ chức nước ngoài; quản lý năng lực hoạt động đo đạc và bản đồ.
Chương VIII quy định về nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ bao gồm trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các cấp; thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về đo đạc và bản đồ.
Chương IX quy định về hiệu lực thi hành và việc quy định chi tiết.