Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã ra yêu cầu phát triển vùng đồng bằng sông Hồng đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số đồng thời xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn.
Một số mục tiêu chưa đạt
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trần Tuấn Anh cho biết để triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực hiện tổng kết các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW của Bộ Chính trị, trên cơ sở đó tham mưu Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Trên cơ sở đó, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW đã phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo “Phát triển văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,” ngày 12/7.
Ông Tuấn Anh đánh giá sau gần 17 năm thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW và 11 năm thực hiện Kết luận 13-KL/TW của Bộ Chính trị, bên cạnh những thành tựu đạt được, vùng đồng bằng sông Hồng phát triển còn nhiều tồn tại, hạn chế, một số mục tiêu của Nghị quyết 54 đề ra chưa đạt được. Như, lĩnh vực văn hóa chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức, chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng chưa thực sự trở thành động lực cho phát triển, chưa tạo đột phá để nâng cao năng suất lao động. Hơn nữa, lĩnh vực y tế, giáo dục còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
"Chưa kể, tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục là vấn đề lớn đối với vùng nói riêng và cả nước nói chung," ông Tuấn Anh trao đổi.
Chưa sẵn sàng nền tảng công nghệ
Ông Bùi Quan Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chỉ ra những điểm nghẽn, nút thắt trong phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh phát triển mới.
Trong đó, việc quy hoạch diện tích đất tự nhiên quá nhỏ làm hạn chế phát triển vùng. Cụ thể, vùng đồng bằng sông Hồng có diện tích nhỏ nhất trong 6 vùng kinh tế cả nước, tổng diện tích tự nhiên toàn vùng hiện có 2.125 nghìn ha, bằng 6,4% tổng diện tích đất tự nhiên cả nước nhưng lại chiếm tới 23,5% dân số cả nước.
Hiện, diện tích đất đã đưa vào sử dụng chiếm 97,3%, diện tích đất chưa sử dụng chỉ còn 2,7%. Mật độ dân số bình quân vùng năm 2020 là 1.078 người/km2, cao nhất cả nước. Ngoài 2 thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng, các đô thị khác trong vùng ngày càng mở rộng ra các khu vực lân cận và đang gặp khó khăn trong việc mở rộng không gian phát triển đô thị, công nghiệp, dich vụ.
Thêm vào đó, mặc dù kinh tế vùng ghi nhận mức tăng trưởng khá cao song tăng trưởng chưa dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng như tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Một điểm nghẽn lớn khác được ông Tuấn nêu đó là kinh tế vùng chưa hình thành được những chuỗi giá trị và các cụm liên kết ngành. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc - nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp với mật độ cao nhưng thực chất vẫn thiếu vắng sự gắn kết giữa các đơn vị sản xuất, dịch vụ phụ trợ cho các hoạt động công nghiệp.
“Sự phát triển cả vùng trong thời gian qua chủ yếu mang tính độc lập, đơn lẻ của từng địa phương, dẫn đến tính liên kết, hợp tác phát triển chưa cao, đặc biệt là trong sản xuất, tiêu thụ nông sản, phát triển công nghiệp, du lịch và không có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cũng như xác định rõ vị trí, vai trò của từng địa phương trong vùng,” ông Tuấn nhấn mạnh.
Thí điểm khu thương mại tự do
Tại hội thảo, đại diện Viện Kinh tế Việt Nam kiến nghị một số chính sách mang tính đột phá nhằm phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng bền vững đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ nhất là kiến tạo liên minh phát triển giữa các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng. Thứ hai là chuyển từ trọng tâm hướng về đầu tư sang hướng về đổi mới sáng tạo, tạo ra hệ sinh thái khuyến khích sự nhập cuộc của các công ty mới năng động, sáng tạo và sự rút lui của các công ty có sản phẩm hoặc công nghệ bị các công ty mới làm cho lỗi thời, lạc hậu.
Thứ ba, xây dựng đô thị Trung tâm 4.0 với những hạt nhân lan toả tăng trưởng của vùng. Cụ thể, ông Tuấn cho hay đô thị 4.0 được hình thành dựa trên các trụ cột trung tâm kết nối với thế giới. Khu đô thị này sẽ gắn với kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững có mô hình quản lý hiện đại và khai thác giá trị từ đất cho việc phát triển cơ sở hạ tầng (như áp dụng các chính sách về thuế và phí liên quan đến bất động sản để có đủ nguồn thu cho việc vận hành và bảo dưỡng đô thị).
Ngoài ra, ông Tuấn nhấn mạnh phần giải pháp thứ tư về nâng cấp cụm ngành công nghiệp chế tạo thông qua xây dựng công viên R&D (nghiên cứu và phát triển). Bởi, các nền tảng công nghiệp của đồng bằng sông Hồng bộc lộ một số điểm yếu, như các cụm ngành mũi nhọn và tiềm năng chưa có sự đa dạng và chiều sâu cần thiết.
Do đó, việc xây dựng một công viên R&D có thể giải quyết đồng thời một số điểm yếu trong công nghiệp và phát triển nói chung của đồng bằng sông Hồng, bao gồm thu hút lực lượng lao động chất lượng cao đến và làm việc tại thành phố; tác động lan tỏa, cải thiện chất lượng các trường đại học trên địa bàn thành phố; tăng sức hấp dẫn với các dự án sản xuất công nghiệp chất lượng cao. Để làm được điều này, giải pháp thứ năm là nâng cấp chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở các địa phương.
Cuối cùng, ông Tuấn đề xuất tăng cường liên kết và phối hợp giữa các địa phương và đề xuất với trung ương cho phép thí điểm khu thương mại tự do (là một dạng đặc khu kinh tế). Theo đó, các trung tâm kết nối này sẽ tận dụng được những điểm mạnh của đô thị, nơi hội tụ lực lượng lao động kỹ năng và các nhân tố hỗ trợ kinh doanh.
“Các địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh xem xét, các ý tưởng phát triển khu thương mại tự do gắn với các phương thức khai thác giá trị từ đất cho việc phát triển cơ sở hạ tầng và các phương thức phát triển và quản lý đô thị hiện đại (khu trung tâm) có quy mô lớn theo hướng trở thành một trung tâm kết nối hiện đại với đồng bằng sông Hồng trong 30 năm tới,” ông Tuấn nói.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh ghi nhận và đánh giá cao tham luận, trao đổi, thảo luận của các lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương vùng đồng bằng sông Hồng và các chuyên gia, nhà khoa học. Ông cho biết Đề án tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW, Ban Chỉ đạo sẽ giao Thường trực Tổ Biên tập chắt lọc kết quả Hội thảo để lựa chọn, tổng hợp đảm bảo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ tổng kết và tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, định hướng nhằm phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng thời gian tới./.
Ngày 14/9/2005 - Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Ngày 28/10/2011 - Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW (Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận 13-KL/TW). |