Những ngày này, quân và dân cả nước đang có nhiều hoạt động thiết thực, hướng tới kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ với niềm tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Nhân dịp này, TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết "Điện Biên Phủ - Trận quyết chiến chiến lược đầu tiên trong thời đại Hồ Chí Minh" của Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
"Từ sau Chiến dịch Biên giới (cuối năm 1950), Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến thắng trong nhiều chiến dịch, giành và giữ thế chủ động trên chiến trường miền Bắc. Trong lúc đó, quân Pháp ngày càng khốn đốn và bị động.
Để cứu vãn tình thế, thực dân Pháp phải tăng thêm lực lượng, thay đổi kế hoạch tác chiến, đưa nhiều tướng lĩnh vào tham chiến.
Tháng 5/1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Henri Navarre, Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
Sau một tháng khảo sát, tìm hiểu thực tế chiến trường, đầu tháng 7/1953,
Navarre vạch ra một kế hoạch quân sự toàn diện, có hệ thống, được Hội đồng Chính phủ và Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua.
Navarre chia kế hoạch tác chiến thành hai bước. Bước thứ nhất, trong Thu Đông 1953 và Xuân 1954, giữ vững thế phòng ngự chiến lược ở 18 độ vĩ tuyến bắc trở ra; tiến công bình định miền Nam, miền Trung Đông Dương; xóa bỏ vùng tự do Liên khu V.
Bước thứ hai, nếu đạt được bước một sẽ chuyển sang tiến công chiến lược miền Bắc, giành thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng.
Thực hiện kế hoạch trên, tướng Navarre và Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tập trung một lực lượng cơ động gồm 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ, mở những cuộc càn quét dữ dội ở vùng địch chiếm đóng; tiến công ra Ninh Bình, Nho Quan, uy hiếp Thanh Hóa; nhảy dù xuống Lạng Sơn, uy hiếp Phú Thọ; đồng thời chúng cho thổ phỉ quấy rối Tây Bắc. Sau đó, cho quân nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ, kế hoạch của chúng là phải lấy lại Nà Sản, củng cố Lai Châu, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Tây Bắc.
Về ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy họp, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954.
Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày phương án tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, ý định của Tổng Quân ủy, Bộ Chính trị xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà lực lượng của địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ. Phương châm chiến lược là tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt.
Thực hiện ý định của Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, bộ đội chủ lực ta bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc, một bộ phận tiến sang Trung Lào phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào.
Được tin các đơn vị chủ lực của Việt Minh di chuyển lên hướng Tây Bắc, Navarre quyết định “ra tay trước,” ngày 20/11/1953, Pháp mở cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ, từng bước biến nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm.
Để xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân Pháp tập trung tăng cường phòng thủ, đưa đến Điện Biên Phủ nhiều binh, hỏa lực và các phương tiện, vũ khí mới, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh. Ngoài ra còn có các đơn vị công binh, cơ giới, không quân, vận tải… hầu hết là những đơn vị tinh nhuệ nhất trong quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
Tổng số binh lực ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lúc cao nhất là trên 16.000 tên, bố trí thành 49 cứ điểm nằm trong tám cụm cứ điểm được tổ chức liên hoàn với nhau. Mỗi cụm cứ điểm là một khu vực phòng ngự - một “trung tâm đề kháng,” có lực lượng cơ động và lực lượng phòng ngự, có hỏa lực riêng, xung quanh có nhiều hàng rào dây thép gai, hàng rào kẽm và cài mìn xen kẽ.
Các “trung tâm đề kháng” này lại được liên kết với nhau thành các phân khu. Toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được chia thành ba phân khu gồm phân khu Bắc (có hai trung tâm đề kháng), phân khu Nam (có một trung tâm đề kháng) và cuối cùng là phân khu Trung tâm (có năm trung tâm đề kháng).
Các trung tâm đề kháng được bố trí trên một không gian tương đối rộng, vừa có khả năng phòng ngự độc lập, vừa có hệ thống công sự trận địa vững chắc và hỏa lực mạnh như súng cối, súng phun lửa…
Ngoài ra, quân Pháp còn xây dựng hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm ở Điện Biên Phủ để có thể đáp ứng được nhu cầu tiếp tế, chi viện bằng đường không.
Với quân đông, hỏa lực mạnh, hệ thống công sự vật cản được xây dựng vững chắc, hoàn chỉnh, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thực sự là “một cứ điểm mạnh nhất từ trước tới nay chưa bao giờ có ở Đông Dương” và được mệnh danh là “pháo đài khổng lồ không thể công phá.”
Chúng cho rằng nếu quân ta mở cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ thì là đi vào con đường tự sát, sự thất bại chắc chắn không thể nào tránh khỏi.
Về phía ta, trên cơ sở hai khối chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh và trực thuộc các Liên khu, lực lượng vũ trang đã hình thành được các đơn vị binh chủng, gồm pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh, thông tin. So sánh quân số đơn thuần tại chiến trường Điện Biên Phủ thì ta hơn hẳn địch (ta là 40.000 người/địch 16.000 tên).
Song về hỏa lực và phương tiện chiến tranh thì quân Pháp có ưu thế hơn ta, nhất là về đạn pháo, máy bay và xe tăng… Mặt khác, chúng được bảo vệ trong hệ thống công sự trận địa vững chắc, với nhiều trung tâm đề kháng.
Nếu không có phương án tác chiến đúng đắn và cách đánh phù hợp, ta khó có thể thắng địch. Bởi vì ta có tiêu diệt được tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì mới phá được hình thức phòng ngự cao nhất của đối phương, mới phá được kế hoạch Navarre, phá âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của chúng.
Nắm vững ý định chiến lược “đánh chắc thắng” của Hồ Chủ tịch, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch tác chiến theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc,” chỉ đạo một số đơn vị huấn luyện cách đánh tập đoàn cứ điểm, chỉ huy quân và dân ta đánh bại nỗ lực cao nhất về quân sự của thực dân Pháp trong chiến tranh Đông Dương, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch Điện Biên Phủ - trận quyết chiến chiến lược trong thời đại Hồ Chí Minh, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ thể hiện tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chủ động, sáng tạo của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh; tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, ngoan cường của cán bộ, chiến sỹ quân đội và nhân dân Việt Nam.
Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ thực sự là một cuộc đấu trí giữa hai bên ta và Pháp trong thời điểm quyết định của chiến tranh, được thể hiện qua mấy vấn đề cơ bản sau.
Thứ nhất, ta tích cực đẩy mạnh tiến công, buộc địch bị động phân tán lực lượng trên những điểm xung yếu, tạo điều kiện thuận lợi và yếu tố bất ngờ để tiến hành trận quyết chiến chiến lược.
Khi chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 diễn ra, trên cơ sở chủ động nắm bắt tình hình địch, ta ở các chiến trường và nghiên cứu kế hoạch tác chiến theo tư tưởng chỉ đạo của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tham mưu tiến hành nghiên cứu và lên phương án tác chiến, xác định hướng tiến công chiến lược.
Để phá kế hoạch Navarre, trước tiên ta phải phân tán cho được khối cơ động chiến lược lớn buộc đối phương bị động đối phó, không thể tập trung lực lượng để quyết chiến với chủ lực ta ở chiến trường do chúng lựa chọn; sau đó điều động từng bộ phận chủ lực của quân Pháp ra từng hướng khác nhau, rồi chọn hướng có lợi, phá ý đồ tác chiến tập trung trên một hướng, một chiến trường của chúng.
Căn cứ phương án tác chiến đã xác định và chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tham mưu đã sử dụng bộ đội chủ lực phối hợp tác chiến trên các chiến trường trong cả nước và toàn Đông Dương; quân và dân ta trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam mở năm đòn tiến công lên các hướng gồm Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào và Tây Nguyên.
Đây là những nơi lực lượng địch mỏng yếu, sở hở, nhưng lại là những địa bàn chiến lược mà chúng không thể bỏ.
Riêng chiến trường Lào, cùng với tiến công lên Tây Bắc, cuối tháng 12/1953, các lực lượng liên quân Lào-Việt phối hợp với nhau mở một cuộc tiến công vào hướng Trung Lào, giải phóng thị xã Thakhet. Sau đó, các lực lượng liên quân phát triển về hướng Seno, một căn cứ không quân quan trọng của địch ở Savanakhet, buộc địch phải gấp rút điều động lực lượng từ đồng bằng Bắc Bộ và từ các chiến trường khác lên tăng viện.
Nhằm đánh lạc hướng phán đoán của địch, tạo điều kiện cho quân ta đẩy mạnh mọi công tác chuẩn bị ở Điện Biên Phủ, cuối tháng 1/1954, quân ta phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến công vào phòng tuyến địch ở khu vực sông Nậmhu, buộc địch phải tăng thêm lực lượng lên Luongphrabang.
Sau chiến thắng ở Trung Lào, Thượng Lào, bộ đội Lào-Việt tiếp tục tiến xuống Hạ Lào giải phóng thị xã Atopo và toàn bộ cao nguyên Boloven, làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Navarre ở vùng đồng bằng, buộc chúng phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó với ta.
Cùng với năm đòn tiến công chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đẩy mạnh chiến tranh nhân dân ở vùng sau lưng địch từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình-Trị-Thiên đến đồng bằng Bắc Bộ, đánh bại các cuộc hành quân càn quét chiếm đất, giành dân của quân Pháp.
Hầu hết các địa bàn xung yếu của địch đều bị tiến công, phòng tuyến sông Đáy bị phá vỡ, nhiều sân bay bị tập kích, đường số 5 bị cắt đứt nhiều đoạn, có chỗ giao thông bị tê liệt hàng tuần.
Khắp nơi, nhân dân nổi dậy phá tề, trừ gian, nhiều đồn bốt địch bị vây hãm phải rút chạy hoặc đầu hàng. Năm đòn tiến công chiến lược cùng hoạt động tiến công chống địch càn quét, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, làm phá sản âm mưu tập trung binh lực cơ động mạnh ở một mặt trận là đồng bằng Bắc Bộ, buộc chúng phải phân tán binh lực để đối phó với ta.
Như vậy, kế hoạch chủ động tập trung binh lực của Navarre chuyển thành bị động, phân tán binh lực. “Khối cơ động” của Navarre ở đồng bằng từ 44 tiểu đoàn rút xuống còn 20 tiểu đoàn. Kế hoạch Navarre bắt đầu phá sản từ đó.
Thứ hai, ta tổ chức lực lượng mạnh, tạo lập thế trận vững chắc, chọn thời cơ đúng, giành thế chủ động “đánh chắc, tiến chắc” trên chiến trường. Lực, thế, thời và mưu lược là những yếu tố hết sức quan trọng. Lực chính là sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của lực lượng cách mạng được nhân lên bằng chiến lược chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc và của thời đại.
Trên chiến trường đã diễn ra một sự phối hợp quy mô rộng lớn, lực lượng vũ trang và nhân dân ta vừa chiến đấu trên mặt trận chính diện, vừa chiến đấu trên các mặt trận phối hợp sau lưng địch.
Về thế, trước ngày nổ súng mở đầu chiến dịch (13/3), quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã sa vào thế yếu, lúc đó lực lượng của địch đã bị căng kéo ra khắp toàn Đông Dương, không có điều kiện để hỗ trợ cho Điện Biên Phủ.
Ta đã hình thành thế bao vây, áp sát lòng chảo Điện Biên Phủ, bố trí hỏa lực phân tán trên các điểm cao thành một đường vòng cung bao lấy tập đoàn cứ điểm, để có thể ngắm bắn trực tiếp các mục tiêu dưới lòng chảo; pháo và đạn được đặt trong hầm khoét sâu vào triền núi và được ngụy trang kín đáo.
Mặt khác, Điện Biên Phủ là một chiến trường rừng núi, hoàn toàn cô lập và cách xa căn cứ hậu phương của đối phương, tất cả mọi việc giao thông tiếp tế đều trông cậy vào máy bay.
Thế nhưng, thời tiết tháng Ba ở Điện Biên Phủ sương mù dày đặc, không thuận lợi cho máy bay cất, hạ cánh, thả dù, tiếp tế.
Trước thế bất lợi đó, quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã bị đặt vào thế bị động phòng ngự, điểm mạnh của chúng đã trở thành điểm yếu không thể phát huy một cách có hiệu quả.
Về thời cơ, để giành thế chủ động trên chiến trường, qua phân tích, đánh giá chỗ mạnh, yếu của ta và địch, thì phương châm “đánh nhanh giải quyết nhanh” ta sẽ gặp điều bất lợi rất lớn, đó là Quân đội ta chưa có kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm. Vì vậy, “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sẽ không nắm chắc được phần thắng lợi. Do đó, ta kiên quyết chuyển phương châm sang “đánh chắc, tiến chắc” để tận dụng thời gian làm chuyển hóa lực lượng.
Thực dân Pháp dựa vào lực lượng quân sự mạnh, chủ trương “đánh nhanh thắng nhanh.” Ta chủ trương “trường kỳ kháng chiến” để phát triển lực lượng, phá tan âm mưu của địch.
Với tư tưởng và quyết tâm đánh chắc thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng thì không đánh, một nguyên tắc cơ bản trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Về mưu lược, ta thực hiện “dĩ nhu xử cương” (lấy mềm xử cứng). Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có hỏa lực pháo binh, cơ giới và không quân mạnh, để giảm hỏa lực của đối phương, phát huy sức mạnh hỏa lực của ta, ta phải tổ chức xây dựng hệ thống giao thông hào, hệ thống trận địa tiến công và bao vây, tạo điều kiện cho bộ đội ta triển khai và vận động dưới hỏa lực của đối phương; pháo binh của ta vận chuyển được vào gần để khống chế sân bay; pháo cao xạ đối phó có hiệu quả với không quân Pháp.
Bằng chiến thuật trên, ta đã ngăn chặn và đi đến triệt nguồn tiếp tế, chi viện của chúng, làm cho quân Pháp không phát huy được ưu thế của quân đội nhà nghề, trang bị vũ khí hiện đại. Pháp muốn đánh chớp nhoáng thì ta kéo dài. Nhất định ta thắng.
Mưu kế của quân ta là phát huy sức mạnh, trí sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta biết kế thừa và phát huy tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong chiến tranh nhân dân để “lấy nhỏ thắng lớn,” “lấy ít địch nhiều,” “lấy thô sơ thắng hiện đại.”
Nhìn nhận toàn bộ chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và thế trận ở Điện Biên Phủ, ta đã thực hiện triệt để phương châm tác chiến “tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu” của đối phương, làm chuyển hóa so sánh lực và thế của hai bên, khi có thời cơ thuận lợi tiến công bao vây giành thắng lợi triệt để.
Thứ ba, triển khai tác chiến hiệp đồng binh chủng kết hợp nhịp nhàng, hiệu quả với tác chiến của lực lượng ba thứ quân. Từ ngày toàn quốc kháng chiến nổ ra (19/12/1946) cho đến trước chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra nhiều chiến dịch nhưng thường có quy mô vừa và nhỏ.
Điện Biên Phủ là chiến dịch lớn nhất, ta đã huy động bốn đại đoàn bộ binh (304, 308, 312, 316), Đại đoàn Công-Pháo 351 và một trung đoàn công binh. Tổng số quân chủ lực của ta khoảng hơn 40.000. Ta còn huy động trên 5 vạn thanh niên xung phong, hơn 4.000 dân công và hàng trăm phương tiện như xe đạp thồ, ôtô vận tải các loại…
Đây là chiến dịch tiến công có lực lượng tham gia nhiều nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, có sự tác chiến hiệp đồng giữa một số binh chủng bộ binh, pháo binh, pháo cao xạ, công binh để tiến công tiêu diệt đối phương trên địa hình rừng núi.
Giai đoạn đầu chiến dịch, trên hướng chính diện, chủ lực ta giam hãm lực lượng quân đồn trú ở Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho quân ta tiêu diệt địch trên các hướng khác.
Trên chiến trường toàn quốc, đã diễn ra một sự phối hợp quy mô rộng lớn giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch. Trên mỗi một chiến trường đều có sự phối hợp giữa mặt trận chính diện và mặt trận địch hậu. Điện Biên Phủ đã trở thành mặt trận chính diện chủ yếu.
Do quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị bao vây trong một thời gian dài, nên chiến tranh du kích ở các nơi đã có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh và thu được thắng lợi.
Đối với các chiến trường phối hợp trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam và Đông Dương, các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương hoạt động liên tục để phối hợp với Điện Biên Phủ, tiêu diệt thêm sinh lực địch và phân tán, giam giữ lực lượng của chúng, làm trở ngại không để cho chúng dễ dàng tăng viện cho Điện Biên Phủ.
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích trên các mặt trận đã tạo nên sức mạnh cho bộ đội chủ lực ta trên Mặt trận Điện Biên Phủ trong tác chiến hiệp đồng binh chủng.
Từ ngày 13/3/1954, giai đoạn một của chiến dịch, ta bắt đầu tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đồng thời, giao nhiệm vụ cho chủ lực trên mặt trận chính diện không chỉ bao vây giam giữ quân địch, mà còn chiến đấu liên tục, tập trung lực lượng để tiêu diệt địch.
Bằng việc tập trung lực lượng, tác chiến hiệp đồng chặt chẽ, quân ta đã đột phá lần lượt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, từng phân khu, đồng thời xây dựng hệ thống trận địa và giao thông hào, từng bước thắt chặt vòng vây, theo cách đánh “bóc vỏ” các trung tâm đề kháng vòng ngoài, phá thế phòng ngự có chiều sâu bên trong của địch, tạo thế trận có lợi cho ta, tiến tới đánh thẳng vào khu trọng yếu nhất thuộc tung thâm phòng ngự của địch.
Cùng với các hoạt động vây lấn của bộ binh, pháo cao xạ và súng máy phòng không của các đại đoàn tiến sâu vào thung lũng, tạo một lưới lửa phòng không khống chế không cho không quân Pháp dùng máy bay tiếp tế cho lực lượng đang bị bao vây trong lòng chảo Điện Biên Phủ. Đó là sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa bộ binh, pháo binh và phòng không, giữa lực lượng tiến công tiêu diệt từng cứ điểm với lực lượng đánh địch phản kích bảo vệ mục tiêu đã chiếm, bảo vệ trận địa tiến công và bao vây; giữa các trận đánh tiêu diệt lớn với tác chiến tiêu hao rộng rãi của các đơn vị đánh lấn, bắn tỉa, luồn sâu đánh hiểm trong tung thâm phòng ngự của tập đoàn cứ điểm.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, trải qua ba đợt tiến công quân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược, những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương, buộc chúng phải ký Hiệp định Geneva (7/1954), chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã để lại cho quân và dân ta nói chung, Bộ Tổng Tham mưu nói riêng nhiều kinh nghiệm quý báu; đặc biệt là hiện thực hóa tư tưởng chính trị, đường lối quân sự của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của chiến tranh Việt Nam, thể hiện qua những nội dung sau:
Một là, trong tác chiến chiến lược, luôn quán triệt tư tưởng tiến công, đánh giá đúng tương quan lực lượng địch-ta trong quá trình phát triển của chiến tranh.
Hai là, chủ động chọn hướng mở đòn tiến công chiến lược, lựa chọn chiến trường chính, mục tiêu chủ yếu chính xác; biết vận dụng sáng tạo và kết hợp linh hoạt các hình thức tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại.
Ba là, quá trình tiến hành chiến tranh, luôn duy trì quyền chủ động trên chiến trường, giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ, tạo và nắm bắt thời cơ, liên tục tiến công.
Bốn là, không ngừng nâng cao trình độ và quy mô tác chiến tập trung hiệp đồng quân binh chủng, thực hiện đánh tiêu diệt lớn trong các chiến dịch và trận quyết chiến chiến lược.
Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm chỉ đạo chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tham mưu dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tiếp tục quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng XI, Nghị quyết số 28-NQ/TƯ về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức đảm nhiệm vai trò nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Trước đòi hỏi của tình hình hiện nay, Bộ Tổng Tham mưu luôn tích cực chủ động nghiên cứu, tham mưu, soạn thảo kế hoạch, nội dung về chiến lược, sách lược như huấn luyện, xây dựng tổ chức lực lượng, quy hoạch, bố trí quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trong cả nước và từng địa phương. Xây dựng khu vực và tuyến phòng thủ vững chắc, sẵn sàng chuyển từ thời bình sang thời chiến.
Quá trình tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp trên mọi lĩnh vực; thường xuyên quán triệt phương châm chiến lược “lấy nhỏ đánh lớn,” “lấy ít địch nhiều” trong hoạt động xây dựng lực lượng, rèn luyện và huấn luyện bộ đội; không ngừng nâng cao trình độ và quy mô tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng.
Kết hợp sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương và sức mạnh chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, kết hợp lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, phát huy sức mạnh tác chiến của lực lượng ba thứ quân; quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Hiện nay, bối cảnh trong nước, khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp khó lường, các thế lực thù địch với âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ, tạo cớ can thiệp, luôn tìm mọi cách để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Đối với Quân đội, thường xuyên quán triệt nghiêm mọi chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc, quan điểm của Đảng về lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong Cương lĩnh, các nghị quyết, nhất là Nghị quyết số 28-NQ/TƯ về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Vấn đề đặc biệt quan trọng là phải nâng cao trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhất là ở cấp chiến lược, nâng cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; từng bước xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh đất nước; nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang; tăng cường quản lý Nhà nước về quốc phòng-an ninh; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị, xã hội; gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"./.