Dịch COVID-19 đã gây ra đứt gãy chuỗi sản xuất và lưu thông hàng hóa. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, phát sinh thêm nhiều khoản chi phí.
Chuyên gia kinh tế, Tiến sỹ Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, nhận định nếu dịch không được kiểm soát, giãn cách xã hội kéo dài, sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên, nhiên vật liệu từ bên ngoài; trong khi đó, giá trên thế giới tăng cao dẫn đến giá thành tăng. Điều này tạo áp lực rất lớn lên lạm phát năm 2022.
Để hiểu rõ hơn những diễn biến về giá cả, kiểm soát mục tiêu lạm phát trong thời gian tới, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với tiến sỹ Nguyễn Bích Lâm về nội dung này.
- Hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn trong sản xuất cũng như lưu thông khiến cho giá cả hàng hóa tăng cao, ông cho biết điều này sẽ tạo áp lực lên lạm phát nền kinh tế trong năm 2021 như thế nào?
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm: Để phòng tránh dịch COVID-19 lây lan ra cộng đồng, ưu tiên bảo vệ sức khoẻ và tính mạng của người dân, nhiều địa phương là trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng và cả nước đã thực hiện giãn cách xã hội. Điều này, ảnh hưởng tới cuộc sống mưu sinh của người lao động, đặc biệt lao động ngoại tỉnh.
[Hà Nội: Nhân rộng điểm bán lưu động giúp người dân mua sắm thuận tiện]
Nhiều lao động ngoại tỉnh đã và sẽ phải hồi hương, gây nên tình trạng thiếu hụt lao động đối với khu vực doanh nghiệp. Để có lao động làm việc, doanh nghiệp sẽ phải trả lương cao hơn, tăng chi phí đào tạo và tuyển dụng lao động, kết quả làm tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh.
Trong 7 tháng năm 2021, có gần 79,7 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, gần 40,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn. Riêng Cần Thơ có đến 95% số doanh nghiệp ngừng hoạt động.
Mặc dù, có một bộ phận doanh nghiệp đã áp dụng phương thức “3 tại chỗ” nhưng hoạt động sản xuất không kéo dài được lâu. Nguyên nhân là chi phí sản xuất của doanh nghiệp bị đội lên tương đương với chi phí tiền lương hàng tháng của người lao động.
Một doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, doanh nghiệp áp dụng phương thức “3 tại chỗ” đã đội chi phí bình quân tăng thêm 9,4 triệu đồng cho một lao động của doanh nghiệp.
Nếu dịch không được kiểm soát, giãn cách xã hội kéo dài, nguồn cung của nền kinh tế bị thiếu hụt sẽ đẩy giá cả tăng cao. Đây cũng là yếu tố gây áp lực lên lạm phát của nền kinh tế trong năm 2022 và các năm tiếp theo.
Năm 2021 không chịu áp lực lạm phát vượt mục tiêu 4% vì nhu cầu tiêu dùng giảm sút do giãn cách xã hội, Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ và giảm giá một số loại hàng hoá và dịch vụ thiết yếu như điện, cước viễn thông… đồng thời, lạm phát bình quân 8 tháng năm 2021 ở mức thấp.
- Năm 2021 và năm 2022, dự báo kinh tế thế giới có sự phục hồi mạnh mẽ, khiến nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng cao đột biến. Trong khi, chuỗi lưu thông chưa trở lại hoạt động bình thường, nguồn cung chưa đáp ứng kịp thời tổng cầu dẫn đến giá các mặt hàng gia tăng. Ông nhận định vấn đề này đối với nền kinh tế Việt Nam như thế nào?
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm: Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tính đến tháng 6/2021 là tháng thứ 9 liên tiếp chỉ số giá hàng hoá thế giới tăng so với tháng trước.
Hàng hoá thế giới 6 tháng đầu năm 2021 đã tăng 47,82% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó, nhóm thực phẩm và đồ uống tăng 26,26%; nhóm nguyên vật liệu đầu vào của ngành công nghiệp tăng 56,44%; nhóm nhiên liệu tăng 81,72%; chi phí logistics và vận chuyển quốc tế đều tăng cao, đặc biệt vận tải biển tăng đến 500% so với trước đại dịch.
IMF dự báo năm 2021 lạm phát của Mỹ đạt mức 2,3%, cao hơn mức 1,2% của năm 2020 và thấp hơn mức 2,4% của năm 2022. Lạm phát của Trung Quốc ở mức 1,2% và tăng lên mức 1,9% năm 2022.
Kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế khu vực và thế giới; sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và giá cả trong nước chịu tác động rất mạnh từ tổng cầu của kinh tế thế giới và tổng cầu trong nước cũng như từ biến động giá nguyên, nhiên vật liệu và tỷ giá hối đoái.
Sản xuất của nền kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu. Trong tổng chi phí sản xuất của toàn bộ nền kinh tế, chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tới 37%. Tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo là ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế chiếm 50,98%.
Điều này cho thấy, nền kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt ngành công nghiệp chế biến chế tạo phụ thuộc quá nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Việc này đồng nghĩa biến động giá nguyên vật liệu thế giới có tác động rất mạnh tới giá thành sản phẩm sản xuất trong nước, lạm phát.
Trong 7 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020, chỉ số giá nhập khẩu các nhóm nguyên, nhiên vật liệu của nền kinh tế Việt Nam đều tăng cao. Cụ thể, chỉ số giá nhập khẩu nhóm thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tăng 22,14%; nhóm rau quả tăng 2,56%; nhóm chất dẻo tăng 12,9%; nhóm xơ sợi dệt các loại tăng 10,78%.
Do cơ chế thị trường với mối liên hệ và mối tương quan giữa nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu với nguyên, nhiên vật liệu trong nước, khi giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu tăng sẽ kéo theo giá các loại chi phí đầu vào sản xuất trong nước cũng tăng. Với kinh tế nước ta, khi giá nguyên vật liệu tăng 1% thì giá sản phẩm đầu ra tăng 2,06% và dẫn đến gia tăng lạm phát.
Dự báo kinh tế Mỹ năm 2021 tăng 7%, khi đã đạt được mục tiêu lạm phát và dần tiến tới mục tiêu việc làm, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ, dự kiến năm 2023 sẽ tăng lãi suất dẫn đến đồng USD tăng giá.
Tỷ giá hối đoái giữa VND với đồng USD và các ngoại tệ tăng sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất, xuất khẩu do sản xuất trong nước phụ thuộc đến 37% vào nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi đồng USD tăng giá làm tăng chi phí nhập khẩu, giảm lợi nhuận từ hàng hoá xuất khẩu của nền kinh tế, giá cả trong nước tăng gây áp lực không nhỏ tới lạm phát.
- Theo ông, đối với Việt Nam cần lưu ý những gì trong đặt mục tiêu lạm phát năm 2022?
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm: Kinh tế nước ta có độ mở lớn, chịu nhiều tác động từ các yếu tố kinh tế, tài chính bên ngoài. Năm 2022 là năm thứ hai cả nước thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2025 trong bối cảnh năm đầu tiên của kỳ kế hoạch chịu ảnh hưởng tiêu cực sâu sắc của đại dịch và quyết tâm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6,5-7%.
Chính phủ cần lưu ý năm 2022, nền kinh tế nước ta chịu áp lực lạm phát rất lớn. Từ đó, đặt mục tiêu lạm phát năm 2022 phù hợp trong ưu tiên phục hồi nhanh “sức khỏe,” khả năng cạnh tranh của nền kinh tế để đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
- Năm 2022, dự báo tổng cầu của thế giới vẫn ở mức cao, lạm phát cao hơn năm 2021. Dự báo kinh tế Việt Nam cũng sẽ chịu áp lực rất lớn về lạm phát, đặc biệt lạm phát chi phí đẩy. Vậy, ông có đề xuất giải pháp gì để Việt Nam đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2022 và các năm tiếp theo?
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm: Theo tôi, trước hết, Chính phủ cần xác định mục tiêu lạm phát năm 2022 phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế-xã hội trong nước; ưu tiên phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng sau khi khống chế và kiểm soát thành công làn sóng thứ tư dịch COVID-19.
Trước tiên, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cần xem xét triển khai tiêm vaccine cho lực lượng lao động khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể. Từ đó, giúp hai khu vực sản xuất quan trọng này của nền kinh tế sớm quay lại sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hoá cho nền kinh tế.
Đồng thời, đẩy nhanh quá trình tiêm vaccine cho toàn dân để đạt tỷ lệ tiêm chủng miễn dịch cộng đồng trong thời gian sớm nhất, tạo cơ sở quan trọng đưa nền kinh tế trở lại hoạt động trong điều kiện bình thường mới.
Cùng với đó, Chinh phủ tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính; rà soát bãi bỏ các khoản chi phí không hợp lý để cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Đồng thời, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng thúc đẩy tổng cung, giảm áp lực lạm phát.
Bên cạnh đó, kết hợp hài hoà giữa chính sách tài khoá và tiền tệ, chú trọng đến chính sách tài khoá hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể vượt qua khó khăn, sớm trở lại sản xuất kinh doanh; sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, không nên quá chú trọng vào chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng. Bởi, hỗ trợ tín dụng và hạ lãi suất cho doanh nghiệp dễ dẫn tới rủi do cho hệ thống ngân hàng và gia tăng lạm phát.
Đồng thời, Chính phủ có giải pháp tối ưu hóa, minh bạch và đơn giản hoá quy trình thương mại; tạo dựng hạ tầng giao thông và quản trị hiệu quả hơn; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin. Chính phủ có giải pháp thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế, giữ khả năng cạnh tranh và thị phần của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới.
Chính phủ cũng chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn cần có chính sách và giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất, nhập khẩu kịp thời nguyên vật liệu; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá.
Đặc biệt, Ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ cần theo dõi chặt diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến lạm phát trong nước; thực hiện hiệu quả và linh hoạt vai trò điều tiết, bình ổn giá của Nhà nước như xăng dầu, dịch vụ y tế, giáo dục.
Đồng thời, nghiên cứu thời điểm, mức độ điều chỉnh giá xăng dầu, dịch vụ do nhà nước quản lý tránh gây cộng hưởng lạm phát chi phí đẩy, tạo ra lạm phát kỳ vọng của nền kinh tế.
Lạm phát, tăng trưởng và việc làm là những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng, nhạy cảm phản ánh thay đổi thu nhập và mức sống của người dân, sự thịnh vượng của một quốc gia, luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và bất định do hệ luỵ của dịch COVID-19 gây ra, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô cần chủ động, linh hoạt trong xác định mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của từng năm phù hợp với diễn biến kinh tế thế giới và khu vực, điều chỉnh một số mục tiêu ngắn hạn để đạt được mục tiêu tổng thể trung hạn.
-Xin cảm ơn ông!./.