Sau một thời gian đưa hàng vào các siêu thị nước ngoài tại Việt Nam, số doanh nghiệp và sản phẩm Việt tồn tại được ở kênh phân phối này khá khiêm tốn.
Trong khi đó, đây là một trong những giải pháp hiệu quả để xuất khẩu hàng Việt ra thị trường thế giới, mà thành phố Hà Nội đang đẩy mạnh triển khai.
Tuy nhiên, với hàng rào kỹ thuật cao, nhiều quy định nghiêm ngặt, doanh nghiệp Việt Nam cần có sự nỗ lực và đầu tư chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu của nhà phân phối.
Hiện Hà Nội có 22 trung tâm thương mại, 125 siêu thị, hơn 700 cửa hàng tiện lợi trải rộng khắp từ nội thành đến các huyện như Chương Mỹ, Thường Tín, Ba Vì, Sóc Sơn... Dự kiến, từ nay đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, toàn thành phố sẽ có 605 chợ; trong đó có 7 chợ đầu mối.
Ngay từ đầu những năm 2000, thị trường bán lẻ Việt Nam đã thu hút được các doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư như Tập đoàn Central Group của Thái Lan sở hữu 4 đại siêu thị, 19 siêu thị Mega Market, 75 cửa hàng tiện lợi B’smart, 32 siêu thị Big C; đồng thời nắm 49% cổ phần hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim và Lan Chi Mart…
Doanh nghiệp bán lẻ Nhật Bản đầu tư, khai thác 5 đại siêu thị gồm Aeon Mall, Trung tâm thương mại Saigon Centre, hệ thống cửa hàng tiện ích Family Mart, 7-Eleven…
Theo chuyên gia bán lẻ Vũ Vinh Phú, cứ 10 doanh nghiệp sản xuất Việt Nam, chỉ một doanh nghiệp có khả năng đưa được hàng vào siêu thị ngoại, do chi phí hàng hóa cao, bị ép giá, chiếm dụng vốn, chiết khấu bán hàng lên tới 30%.
Bên cạnh đó, chất lượng, mẫu mã cũng như tính ổn định của sản phẩm Việt còn rất hạn chế. Con số hàng nông sản sạch tiêu thụ tại siêu thị, trung tâm thương mại được đánh giá là khá nhỏ bé so với năng lực sản xuất của Việt Nam. Điều này khiến hàng Việt lép vế, bị "đẩy" ra khỏi hệ thống để hàng nước ngoài thế chỗ.
Bà Trần Thị Phương Lan, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội, cho biết một yếu tố quan trọng khác khiến việc đưa nông sản Việt vào siêu thị trở nên khó khăn là do người nông dân, nhà sản xuất chưa kiểm soát, đảm bảo được chất lượng hàng hóa của mình để đạt tiêu chuẩn đưa vào siêu thị.
Trên thực tế, nhiều nông sản chưa đảm bảo vệ sinh, chưa có bao bì, mã số, mã vạch cũng như thiếu các chứng nhận về an toàn thực phẩm. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt thông qua hệ thống bán lẻ quốc tế, đòi hỏi doanh nghiệp Việt phải đầu tư sản xuất.
Theo bà Nguyễn Thị Mai Anh, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch Hà Nội, điểm yếu của doanh nghiệp Việt hiện nay là khó tiếp cận thông tin tiêu chí sản xuất và công nghệ để có thể đưa ra sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của thị trường, giá cả phải chăng, mang tính cạnh tranh.
Với hàng rào kỹ thuật cao, nhiều quy định đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư lớn, nếu không có sự đầu tư và cam kết lâu dài, doanh nghiệp không thể đáp ứng được đầy đủ ngay tức khắc yêu cầu của nhà phân phối.
Bên cạnh đó, vấn đề vốn cũng là rào cản với các doanh nghiệp trong quá trình đưa hàng Việt vào hệ thống bán lẻ ngoại.
[Tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán vui tươi, an toàn]
Hiện doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường bán hàng trước trả tiền sau với thời gian trả tiền từ 3 đến 4 tuần, hoặc hơn 3 tháng. Đây là lý do khiến doanh nghiệp trong nước mặc dù đáp ứng tốt các yêu cầu của hệ thống bán lẻ hiện đại nhưng không đủ vốn tham gia hệ thống bán lẻ ngoại ngay tại “sân nhà.”
Bà Lê Thị Mai Linh, Phó Chủ tịch điều hành quan hệ đối ngoại và truyền thông Tập đoàn Central Group Việt Nam cho biết, để phân phối thật nhiều hàng hóa của Việt Nam vào hệ thống siêu thị Big C khắp thế giới, trước tiên sản phẩm đó phải đủ tiêu chuẩn và bán tốt trong siêu thị tại Việt Nam.
Tuy vậy, nhiều hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt chuẩn quốc tế, thiếu các sản phẩm mạnh, đủ điều kiện để xuất hiện trong các hệ thống phân phối nước ngoài.
Để hàng Việt không bị loại khỏi hệ thống bán lẻ quốc tế, theo bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp, doanh nghiệp Việt phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức hiệu quả các chuỗi khép kín từ sản xuất đến phân phối.
Đồng tình với ý kiến này, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam Đinh Thị Mỹ Loan phân tích, cái khó nhất hiện nay khi đưa hàng Việt xuất khẩu ra thế giới, thông qua hệ thống bán lẻ quốc tế là thiếu đội ngũ doanh nghiệp Việt đủ mạnh để đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; vượt qua được những rào cản kỹ thuật trong việc tiếp cận hệ thống bán lẻ quốc tế.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt nên bỏ tư tưởng tiêu thụ hàng trong thời gian tham gia xúc tiến thương mại, mà nên đẩy mạnh việc tìm kiếm đối tác tiêu thụ trong tương lai.
Tuy nhiên, theo ngành công thương, đây chỉ là lo ngại ban đầu, khi hệ thống bán lẻ nước ngoài mới đầu tư vào thị trường Việt Nam. Qua theo dõi thực tế của ngành công thương cho thấy, các nhà bán lẻ nước ngoài phân phối sản phẩm hàng Việt trên đất Việt sẽ mang lại cho họ lợi nhuận nhiều nhất.
Kiểm tra tại hệ thống 33 siêu thị của Big C trên toàn quốc đều có tỷ lệ trên 90% hàng Việt, hệ thống Aeon Nhật Bản đã có trên 80% là hàng Việt, nhất là đối với nhóm hàng nông sản, thực phẩm.
Tuy nhiên, những siêu thị này cũng giữ một số lượng nhất định thực phẩm nhập khẩu để người Việt Nam được thưởng thức các sản phẩm, đặc sản thế giới theo mùa vụ như quả cherry, táo hay kiwi.
Để đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp vào các hệ thống siêu thị nước ngoài, ngành công thương đang triển khai đề án “Thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp tham gia các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2020.”
Qua đó, Sở Công Thương Hà Nội sẽ tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, kết nối với hệ thống phân phối và xây dựng kho ngoại quan ở nước ngoài để doanh nghiệp đóng gói hàng hóa tại nước ngoài với sự giám sát chất lượng của nước sở tại.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng sẽ ký hiệp định liên chính phủ với các nước đó để có các điều kiện về thuế, cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp./.