Việt Nam có thể huy động tài chính công ở trong nước và dịch chuyển một phần tiết kiệm của khu vực tư nhân trong nước cho chương trình nghị sự khí hậu. Bên cạnh đó, các nguồn lực bên ngoài sẽ rất quan trọng cho việc đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
Nguồn vốn viện trợ phát triển
Nguồn tài chính bên ngoài có thể là nguồn công hoặc tư. Trong đó, nguồn tài chính công có thể là vốn ưu đãi hoặc không ưu đãi đa phương hoặc song phương và nguồn tư nhân có thể là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc các nhà đầu tư tổ chức.
Báo cáo quốc gia “Việt Nam dung hòa phát triển kinh tế với rủi ro khí hậu” của Ngân hàng Thế giới chỉ ra Việt Nam cần tăng các khoản tài trợ từ ngân sách bằng cách nâng cao nguồn thu bổ sung thông qua thuế carbon hoặc đi vay từ các thị trường trong, ngoài nước đảm bảo ở giới hạn cần thiết. Việc làm này nhằm tránh gánh nặng nợ cho Chính phủ trong tương lai. Nguồn thu huy động thêm từ các tài chính quốc tế, bao gồm các tổ chức đầu tư, nhà tài trợ đa phương và song phương đi cùng với đó là khai thác dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kiều hối...).
Tài chính Xanh: Làm gì để huy động vốn hiệu quả qua kênh trái phiếu?
Việc huy động vốn trên thị trường Tài chính Xanh thông thường thông qua kênh Trái phiếu Xanh, tuy nhiên thị trường này tại Việt Nam vẫn chưa làm tốt nhiệm vụ của mình.
Về các hoạt động thu hút nguồn lực cho biến đổi khí hậu, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết đã phối hợp với các bộ, ngành, Ngân hàng Thế giới và các nhà tài trợ đánh giá việc cung cấp nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nước ngoài(ODA) cho biến đổi khí hậu và Tăng trưởng Xanh.
Qua rà soát, giai đoạn 2012-2021, nguồn tài chính phát triển quốc tế cho biến đổi khí hậu và Tăng trưởng Xanh vào Việt Nam khoảng 2,26 tỷ USD mỗi năm, trong đó có khoảng 39% là dành cho các hoạt động chống chịu, 49% cho các hoạt động giảm nhẹ, 12% cho các hoạt động đồng lợi ích. Tuy nhiên, dòng tài chính này đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây.
Gần đây, Thỏa thuận Paris và Thỏa thuận Glasgow đã tạo ra cú hích tập thể lớn về tài chính khí hậu để hỗ trợ các gói phục hồi xanh và nhu cầu đầu tư để thực hiện đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Nhưng, quy mô và mức độ sẵn có của các nguồn vốn này vẫn chưa chắc chắn, cả trên toàn cầu và đặc biệt đối với Việt Nam.
Cụ thể, báo cáo Tổng của Vụ Kinh tế Đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho thấy vốn hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam đã giảm mạnh từ 4,2 tỷ USD năm 2014 xuống chỉ còn khoảng 1 tỷ USD năm 2019. Trong các dự báo kinh tế vĩ mô và tài khóa, Chính phủ đã không đặt kỳ vọng nguồn vốn ODA sẽ tăng đáng kể và trung bình vào khoảng 4 tỷ USD trong giai đoạn 2021–2025. Tuy nhiên, con số kế hoạch này cũng cao hơn đáng kể so với số vốn thực tế được cam kết trong những năm gần đây.
Về điều này, Phó giáo sư, Tiến sỹ Bùi Quang Tuấn, Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh việc dồn lực theo đuổi các nỗ lực khuyến khích đầu tư tư nhân vào công nghệ mới và cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu, cần thiết phải ưu tiên Xanh hóa khu vực tài chính. Vì, nó chỉ tương đương khoảng 0,2% GDP (năm 2020).
Bên cạnh việc các ngân hàng huy động Tín dụng Xanh, phát triển các công cụ dựa trên thị trường (như Cổ phiếu Xanh và Trái phiếu Xanh), áp dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro (Bảo hiểm Xanh), Tiến sỹ Bùi Quang Tuấn cho rằng cần bổ sung các cách thức mới để chia sẻ gánh nặng rủi ro giữa khu vực công và khu vực tư nhân.
"Điều này nhằm khuyến khích đầu tư trong bối cảnh tính bất định cao,” Tiến sỹ Bùi Quang Tuấn chia sẻ.
Hướng nguồn vốn FDI vào giảm nhẹ, thích ứng biến đổi khí hậu
Ngoài ra, kênh tài trợ quốc tế khác có thể thông qua các công ty đa quốc gia và các khoản đầu tư mới tiềm năng từ nước ngoài.
Theo Tổng cục Thống kê, cả nước có hơn 220.000 doanh nghiệp FDI, bao gồm các công ty lớn có trách nhiệm môi trường và xã hội về khử carbon trong chuỗi giá trị, bảo vệ các tài sản dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở đó, Chính phủ có thể xem xét sử dụng các biện pháp khuyến khích (như giảm thuế, trợ cấp hoặc tinh giản các thủ tục) để hướng các nguồn tiền vốn FDI vào các hoạt động giảm nhẹ hoặc thích ứng với biến đổi khí hậu.
Báo cáo “Chính sách thuế ở Việt Nam: Các vấn đề và Khuyến nghị Cải cách” của Ngân hàng Thế giới cho rằng có thể cân nhắc thay các ưu đãi thuế đối với khu vực FDI (tương đương số giảm thu khoảng 1,5% GDP), bằng các khoản tín dụng thuế dành cho các khoản đầu tư liên quan đến khí hậu hoặc chuyển giao Công nghệ Xanh do cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài thực hiện.
Bên cạnh đó, báo cáo của Tổng cục Thống kê ghi nhận lượng kiều hối đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam, đạt 6,3% GDP vào năm 2020 và gấp hơn 10 lần dòng vốn ODA. Ngân hàng thế giới gần đây dự báo, nguồn kiều hối dự kiến đạt 14 tỷ USD trong năm 2023 và 14,4 tỷ USD vào năm 2024.
Trên cơ sở đó, Tiến sỹ Bùi Quang Tuấn kiến nghị Chính phủ có thể thực hiện chiến dịch quảng bá để khuyến khích sử dụng nguồn này cho các dự án liên quan đến khí hậu, bao gồm cả việc sử dụng các khoản trợ cấp tiềm năng để thúc đẩy nhiều bên tham gia hơn nữa. Theo ông, Việt Nam sẽ cần hỗ trợ tài chính từ bên ngoài để bù đắp thiếu hụt kinh phí và cung cấp các nguồn lực ưu đãi ngay lập tức. Do các biện pháp giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các thế hệ tương lai, vì vậy một phần chi phí vay nên được phân bổ cho tương lai.
Theo ông Bùi Quang Tuấn, các hoạt động chủ yếu như ban hành cơ chế ưu đãi cho Đầu tư Xanh, Tín dụng Xanh nhằm khuyến khích đầu tư vào các Dự án Xanh, thúc đẩy Tăng trưởng Xanh ở các địa phương cần được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, các cấp quản lý nghiên cứu, đề xuất xây dựng các giải pháp tập trung nguồn lực cho Tín dụng Xanh và rà soát, sửa đổi bổ sung quy định về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài. Những động thái này nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn vốn cho Tăng trưởng Xanh của nước ngoài. Mặt khác, công tác quản lý Nhà nước cần nâng cấp, thể chế hóa Bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI) và yêu cầu Báo cáo bền vững đối với doanh nghiệp ở các địa phương.../.