Kinh tế biển xanh: Cơ hội giúp Việt Nam trung hòa carbon vào năm 2050

Kinh tế biển xanh đang là xu hướng phát triển, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, hiện thực hóa cam kết đưa mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà Việt Nam vá các quốc gia đã đưa ra tại COP26.
Quần đảo Cát bà góc nhìn từ trên cao. (Ảnh: TTXVN)
Quần đảo Cát bà góc nhìn từ trên cao. (Ảnh: TTXVN)

Với hơn 3.260 km bờ biển, năng lượng sóng phong phú, một số khu vực biển có lượng gió lớn nhất ở Đông Nam Á, Việt Nam cần phát huy tiềm năng lớn về phát triển điện sạch từ gió, sóng ngoài khời - đây cũng là cơ hội để Việt Nam sớm hiện thực hóa cam kết mạnh mẽ đưa mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 đã đưa ra tại COP26.

Đó là một trong 5 khuyến nghị chính sách trong báo cáo “Kinh tế biển xanh - Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” vừa được Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 12/5, trong khuôn khổ Hội nghị quốc tế về kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu, đang diễn ra tại Hà Nội.

Phát biểu tại lễ công bố, bà Caitlin Wiesen, Trưởng Đại diện thường trú UNDP nhấn mạnh Việt Nam là đất nước có đường bờ biển dài cung cấp vốn tự nhiên lớn cho phát triển kinh tế. Với lợi thế đường bờ biển dài với nhiều tiềm năng năng lượng ngoài khơi như vậy, nếu được phát triển hợp lý, sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng.

Tuy nhiên, đại dương đang phải đối mặt với những mối đe dọa và rủi ro ngày càng tăng do biến đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm môi trường, khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên và kinh tế thiếu bền vững. Đáng lo ngại là, ở Việt Nam, mỗi ngày có khoảng 2.000 tấn rác thải nhựa từ trong nước rò rỉ ra biển. Dự báo cho thấy nếu không có gì thay đổi, sẽ có nhiều nhựa hơn cá tại các đại dương vào năm 2050.

Đứng trước thực tế trên, theo bà Caitlin Wiesen, báo cáo đầu tiên về kinh tế biển xanh mang tên “hướng đến phát triển bền vững kinh tế biển” (tập trung vào 6 ngành kinh tế biển chính là ngư nghiệp, năng lượng tái tạo, dầu khí, du lịch, giao thông vận tải, môi trường và hệ sinh thái) được kỳ vọng là tài liệu quan trọng, nhằm hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế biển xanh, thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết 36/NQ-TW.

[Việt Nam-Liên hợp quốc: Đối tác hợp tác vì sự phát triển bền vững]

Ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng nhấn mạnh sau những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, kinh tế ven biển và các ngành kinh tế biển càng có vai trò quan trọng trong việc phục hồi các hoạt động kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Trong đó, kinh tế biển xanh đang là xu hướng phát triển của thế giới, nhất là các quốc gia có biển.

Do vậy, báo cáo về kinh tế biển xanh lần này làm rõ khái niệm kinh tế biển xanh, và đánh giá thực trạng một số ngành kinh tế biển chính của Việt Nam, từ đó xác định tiềm năng và xây dựng kịch bản phát triển kinh tế biển xanh bền vững trong tương lai.

Kinh tế biển xanh: Cơ hội giúp Việt Nam trung hòa carbon vào năm 2050 ảnh 1Một góc Quy Nhơn. (Ảnh: Thành Đạt/TTXVN)

Đặc biệt, báo cáo đã đưa ra một số khuyến nghị quan trọng góp phần giúp Việt Nam thực hiện thành công Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, nhất là về bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển.

Theo đó, đối với năng lương tái tạo biển, báo cáo kinh tế biển xanh khuyến nghị Việt Nam cần mở rộng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biển đạt 10.000 MW lắp đặt vào năm 2030. Trong đó, khoảng 4.500 MW gió gần bờ (chủ yếu là tại Đồng bằng sông Cửu Long) và 5.500 MW gió ngoài khơi, chủ yếu là tại khu vực Nam Trung Bộ.

Báo cáo cũng khuyến nghị thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sản xuất dầu khí; tăng cường bảo vệ môi trường; tham gia vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo trên biển mới nổi.

Với lĩnh vực thủy sản và nuôi trồng thủy sản, báo cáo khuyến nghị giảm giảm sản lượng đánh bắt thủy sản xuống mức sản lượng bền vững tối đa (khoảng 2,7 triệu tấn mỗi năm) thông qua việc giảm sản lượng đánh bắt 2% mỗi năm; duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản; và cải tiến quản lý đến năng suất an toàn…

Tương tự, đối với lĩnh vực du lịch, báo cáo khuyến nghị thúc đẩy tăng trưởng khách quốc tế 8-10%/năm và khách nội địa 5-6%/năm đến năm 2030; đạt 1,6 triệu giường khách du lịch với tỷ lệ lấp đầy 65% vào năm 2030; đưa các tác động của biến đổi khí hậu (bao gồm cả nước biển dâng) vào quy hoạch du lịch.

Ngoài ra, báo cáo khuyến nghị tăng vận tải biển lên 20,6% vào năm 2030; nâng khối lượng hàng hóa vận chuyển lên 787 triệu tấn và mở rộng vận tải nội địa lên 289 triệu tấn.../.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục