Theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB), giai đoạn 2000-2010, kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng xuất khẩu vượt bậc trên 17%, tuy nhiên mức độ này đang giảm dần do áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt và xu hướng bảo hộ thị trường.
Chình vì vậy, tại Hội thảo "Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và năng lực cạnh tranh" do Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế và Ngân hàng thế giới tại Việt Nam tổ chức sáng 4/7, các chuyên gia cho rằng, hiệu quả trong logistics và vận tải là một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Những thách thức nội tại
Báo cáo của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam cho thấy, mặc dù kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng cao, nhưng do tỷ lệ nội địa hóa thấp, nguồn nhập khẩu chiếm từ 60-70%, có ngành lên tới 90-99% (ngành điện tử), nên phần thặng dư đem lại trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam không cao.
Lực cản lớn nhất mà nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang phải xếp hạng sau một số đối thủ cạnh tranh trong khu vực là về thời gian, chi phí và độ tin cậy, đặc biệt là thách thức trong hậu cần thương mại do những hạn chế về cơ sở hạ tầng giao thông, hiệu quả và minh bạch trong công tác hải quan.
Có thể so sánh, mức chi phí chứa hàng trong chuỗi cung ứng, tỷ lệ vận chuyển và bốc dỡ hàng chậm trễ, tiếp cập nhân sự quản lý logistics và các giấy phép, thủ tục thông quan... đều yếu kém hơn so với Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia.
Do vậy, khi phải đối mặt với thâm hụt nghiêm trọng trong cán cân thương mại với các đối tác lớn, năng lực xuất khẩu của Việt Nam đã không có những bước tiến đáng kể trong chuỗi giá trị, thể hiện khá rõ ở việc xuất khẩu chỉ tập trung trong số 10 sản phẩm hàng đầu. Trong khi đó, lượng hàng nhập khẩu vào Việt Nam ít tập trung hơn nhưng lại quá phụ thuộc vào các nguồn hàng từ Trung Quốc và ASEAN.
Chỉ ra những yếu kém trên, theo ông Phạm Minh Đức, chuyên gia kinh tế cao cấp Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, trong bảng xếp hạng chỉ số năng lực logistics (LPI) gồm 155 nước từ giai đoạn 2007-2012 thì chỉ số tổng thể (LPI) của Việt Nam không thay đổi (đứng ở bậc thứ 53), nhưng xếp hạng về hải quan thì từ bậc thứ 37 (năm 2007) đã tụt xuống bậc 63 vào năm 2012, còn về hạ tầng cơ sở cũng tụt 12 bậc (từ bậc 60 xuống bậc 72).
Ông Đức cho rằng, hiện có quá nhiều những quy định, việc thực hiện giữa các cơ quan không thống nhất gây ra lãng phí thời gian, đặc biệt trong hoạt động "bôi trơn" đã gây ra những méo mó dẫn đến sự không đồng đều và thiếu minh bạch đối với các hoạt động thương mại quốc tế và trong nước, thổi phồng giá logistics...
Thực tế khảo sát của ngân hàng thế giới cũng đưa ra cảnh báo, chi phí bôi trơn chiếm khoảng 15% trong tổng số chi phí của một container cao 40 feet và khoảng 13% trong tổng chi phí của một container xuất khẩu hàng hóa thông thường.
"Nguyên nhân là do những quy định của chính phủ cồng kềnh và không dễ diễn giải, việc thi hành những quy định của không thống nhất giữa các tỉnh và giữa các cán bộ công chức," ông Đức cho hay.
Đồng quan điểm, ông Paul Vallely, chuyên gia cao cấp về giao thông vận tải Ngân hàng thế giới tại Việt Nam cũng nhấn mạnh, các dự án cơ sở hạ tầng vận tải được lên kế hoạch và chủ yếu thực hiện tách rời, không có phương pháp tiếp cận chiến lược và hành lang đa mô hình, ít cân nhắc tới vấn đề cung-cầu.
Trong khi đó, vận tải hàng hóa bằng đường sắt chưa được chú trọng, vận tải đường bộ phân tán thiếu chuẩn, cảng nước sâu được khai thác hiệu quả thấp hơn nhiều so với công suất thiết kế… Ước tính mức độ đầu tư hạ tầng giao thông vận tải (giai đoạn 2009-2011) chỉ là 3,1% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của một quốc gia có cùng một mức độ phát triển.
"Nâng cao hiệu quả dịch vụ logistics có thể tạo ra những kết quả gia tăng năng suất bền vững, duy trì tăng trưởng," ông Paul Vallely đưa ra ý kiến.
Cần tập trung vào "3 trụ cột"
Báo cáo đánh giá của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam chỉ rõ, hạn chế lớn nhất của Việt Nam là cơ sở hạ tầng chưa phù hợp và hải quan thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, chìa khóa cho sự tăng trưởng xuất khẩu chính là tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa, trong đó tạo thuận lợi thương mại là một phương thức hiệu quả để thực hiện điều này.
Từ đánh giá trên, ông Phạm Minh Đức cho rằng, Việt Nam cần quan tâm phát triển 3 trụ cột, đó là: Tăng cường năng lực đáp ứng của dịch vụ hạ tầng giao thông vận tải và logistic; cải thiện thủ tục pháp quy trong giao dịch thương mại qua biên giới tiến tới tự động hóa hoàn toàn các thủ tục thông quan vào năm 2014 và cuối cùng là phải tiến hành tái cấu trúc chuỗi cung ứng hàng hóa xuất khẩu để tăng giá trị gia tăng.
Làm rõ hơn điều này, theo ông Đức, từ góc độ năng lực cạnh tranh thương mại, tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam đang bị hạn chế nghiêm trọng bởi hạ tầng và kết nối giao thông yếu kém. Do vậy, cần thay đổi cách thức dựa quá nhiều vào đầu tư công, vốn đang bị đánh giá là "không đủ lực, không hiệu quả."
Bên cạnh đó, thủ tục pháp quy nhất là về hải quan vẫn còn lạc hậu, tốn kém thời gian, quy trình nghiệp vụ phức tạp không nhất quán, nên muốn tăng mạnh xuất khẩu thì không thể bỏ qua những vấn đề thủ tục làm giảm năng lực cạnh tranh.
"Góp phần quyết định những thành công trên thì việc tạo dựng một chuỗi cung ứng hiệu quả sẽ hỗ trợ quan trọng cho việc nâng cao giá trị gia tăng ở mức độ tối đa," ông Đức khuyến nghị.
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng chia sẻ, trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2020, Việt Nam vẫn định hướng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
Muốn vậy, Chính phủ Việt Nam cần cải thiện cơ sở hạ tầng logistics bằng cách sớm tái cơ cấu lĩnh vực dịch vụ vận tải kho vận, quy hoạch lại vị trí các khu công nghiệp cho gần các đầu mối giao thông, tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa trong xuất khẩu.
Đặc biệt là nâng cấp cửa khẩu chính, cải cách thủ tục hải quan để giảm thời gian thông quan, giúp di chuyển hàng hóa qua biên giới tốt hơn, góp phần thuận lợi hóa thương mại và tạo lập giá trị là nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian tới...
"Để làm được điều này ngoài vai trò nhà nước thì sự đóng góp của khu vực tư nhân cũng hết sức quan trọng, đây sẽ là một kênh có thể tạo ra một nguồn vốn lớn cho phát triển," bà Victoria Kwakwa nói.
Từ những ý kiến tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang nhấn mạnh, các hoạt động nghiên cứu phân tích của Bản báo cáo do Ngân hàng thế giới đưa ra đã tạo cơ sở kiến nghị chính sách mang tính khả thi, nhằm nâng cao năng lực thương mại quốc gia giúp Việt Nam đạt những mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững đồng thời chủ động hơn nữa trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
"Mục tiêu chính của Việt Nam là trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Để làm được điều này thì cần nâng cao năng lực cạnh tranh ngay từ nội tại của nền kinh tế. Sau báo cáo này, Bộ Công Thương sẽ tham gia cùng ngân hàng thế giới xây dựng chương trình hành động để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế," Thứ trưởng Lê Dương Quang cho biết./.
Chình vì vậy, tại Hội thảo "Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và năng lực cạnh tranh" do Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế và Ngân hàng thế giới tại Việt Nam tổ chức sáng 4/7, các chuyên gia cho rằng, hiệu quả trong logistics và vận tải là một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Những thách thức nội tại
Báo cáo của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam cho thấy, mặc dù kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng cao, nhưng do tỷ lệ nội địa hóa thấp, nguồn nhập khẩu chiếm từ 60-70%, có ngành lên tới 90-99% (ngành điện tử), nên phần thặng dư đem lại trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam không cao.
Lực cản lớn nhất mà nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang phải xếp hạng sau một số đối thủ cạnh tranh trong khu vực là về thời gian, chi phí và độ tin cậy, đặc biệt là thách thức trong hậu cần thương mại do những hạn chế về cơ sở hạ tầng giao thông, hiệu quả và minh bạch trong công tác hải quan.
Có thể so sánh, mức chi phí chứa hàng trong chuỗi cung ứng, tỷ lệ vận chuyển và bốc dỡ hàng chậm trễ, tiếp cập nhân sự quản lý logistics và các giấy phép, thủ tục thông quan... đều yếu kém hơn so với Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia.
Do vậy, khi phải đối mặt với thâm hụt nghiêm trọng trong cán cân thương mại với các đối tác lớn, năng lực xuất khẩu của Việt Nam đã không có những bước tiến đáng kể trong chuỗi giá trị, thể hiện khá rõ ở việc xuất khẩu chỉ tập trung trong số 10 sản phẩm hàng đầu. Trong khi đó, lượng hàng nhập khẩu vào Việt Nam ít tập trung hơn nhưng lại quá phụ thuộc vào các nguồn hàng từ Trung Quốc và ASEAN.
Chỉ ra những yếu kém trên, theo ông Phạm Minh Đức, chuyên gia kinh tế cao cấp Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, trong bảng xếp hạng chỉ số năng lực logistics (LPI) gồm 155 nước từ giai đoạn 2007-2012 thì chỉ số tổng thể (LPI) của Việt Nam không thay đổi (đứng ở bậc thứ 53), nhưng xếp hạng về hải quan thì từ bậc thứ 37 (năm 2007) đã tụt xuống bậc 63 vào năm 2012, còn về hạ tầng cơ sở cũng tụt 12 bậc (từ bậc 60 xuống bậc 72).
Ông Đức cho rằng, hiện có quá nhiều những quy định, việc thực hiện giữa các cơ quan không thống nhất gây ra lãng phí thời gian, đặc biệt trong hoạt động "bôi trơn" đã gây ra những méo mó dẫn đến sự không đồng đều và thiếu minh bạch đối với các hoạt động thương mại quốc tế và trong nước, thổi phồng giá logistics...
Thực tế khảo sát của ngân hàng thế giới cũng đưa ra cảnh báo, chi phí bôi trơn chiếm khoảng 15% trong tổng số chi phí của một container cao 40 feet và khoảng 13% trong tổng chi phí của một container xuất khẩu hàng hóa thông thường.
"Nguyên nhân là do những quy định của chính phủ cồng kềnh và không dễ diễn giải, việc thi hành những quy định của không thống nhất giữa các tỉnh và giữa các cán bộ công chức," ông Đức cho hay.
Đồng quan điểm, ông Paul Vallely, chuyên gia cao cấp về giao thông vận tải Ngân hàng thế giới tại Việt Nam cũng nhấn mạnh, các dự án cơ sở hạ tầng vận tải được lên kế hoạch và chủ yếu thực hiện tách rời, không có phương pháp tiếp cận chiến lược và hành lang đa mô hình, ít cân nhắc tới vấn đề cung-cầu.
Trong khi đó, vận tải hàng hóa bằng đường sắt chưa được chú trọng, vận tải đường bộ phân tán thiếu chuẩn, cảng nước sâu được khai thác hiệu quả thấp hơn nhiều so với công suất thiết kế… Ước tính mức độ đầu tư hạ tầng giao thông vận tải (giai đoạn 2009-2011) chỉ là 3,1% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của một quốc gia có cùng một mức độ phát triển.
"Nâng cao hiệu quả dịch vụ logistics có thể tạo ra những kết quả gia tăng năng suất bền vững, duy trì tăng trưởng," ông Paul Vallely đưa ra ý kiến.
Cần tập trung vào "3 trụ cột"
Báo cáo đánh giá của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam chỉ rõ, hạn chế lớn nhất của Việt Nam là cơ sở hạ tầng chưa phù hợp và hải quan thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, chìa khóa cho sự tăng trưởng xuất khẩu chính là tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa, trong đó tạo thuận lợi thương mại là một phương thức hiệu quả để thực hiện điều này.
Từ đánh giá trên, ông Phạm Minh Đức cho rằng, Việt Nam cần quan tâm phát triển 3 trụ cột, đó là: Tăng cường năng lực đáp ứng của dịch vụ hạ tầng giao thông vận tải và logistic; cải thiện thủ tục pháp quy trong giao dịch thương mại qua biên giới tiến tới tự động hóa hoàn toàn các thủ tục thông quan vào năm 2014 và cuối cùng là phải tiến hành tái cấu trúc chuỗi cung ứng hàng hóa xuất khẩu để tăng giá trị gia tăng.
Làm rõ hơn điều này, theo ông Đức, từ góc độ năng lực cạnh tranh thương mại, tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam đang bị hạn chế nghiêm trọng bởi hạ tầng và kết nối giao thông yếu kém. Do vậy, cần thay đổi cách thức dựa quá nhiều vào đầu tư công, vốn đang bị đánh giá là "không đủ lực, không hiệu quả."
Bên cạnh đó, thủ tục pháp quy nhất là về hải quan vẫn còn lạc hậu, tốn kém thời gian, quy trình nghiệp vụ phức tạp không nhất quán, nên muốn tăng mạnh xuất khẩu thì không thể bỏ qua những vấn đề thủ tục làm giảm năng lực cạnh tranh.
"Góp phần quyết định những thành công trên thì việc tạo dựng một chuỗi cung ứng hiệu quả sẽ hỗ trợ quan trọng cho việc nâng cao giá trị gia tăng ở mức độ tối đa," ông Đức khuyến nghị.
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng chia sẻ, trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2020, Việt Nam vẫn định hướng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
Muốn vậy, Chính phủ Việt Nam cần cải thiện cơ sở hạ tầng logistics bằng cách sớm tái cơ cấu lĩnh vực dịch vụ vận tải kho vận, quy hoạch lại vị trí các khu công nghiệp cho gần các đầu mối giao thông, tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa trong xuất khẩu.
Đặc biệt là nâng cấp cửa khẩu chính, cải cách thủ tục hải quan để giảm thời gian thông quan, giúp di chuyển hàng hóa qua biên giới tốt hơn, góp phần thuận lợi hóa thương mại và tạo lập giá trị là nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian tới...
"Để làm được điều này ngoài vai trò nhà nước thì sự đóng góp của khu vực tư nhân cũng hết sức quan trọng, đây sẽ là một kênh có thể tạo ra một nguồn vốn lớn cho phát triển," bà Victoria Kwakwa nói.
Từ những ý kiến tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang nhấn mạnh, các hoạt động nghiên cứu phân tích của Bản báo cáo do Ngân hàng thế giới đưa ra đã tạo cơ sở kiến nghị chính sách mang tính khả thi, nhằm nâng cao năng lực thương mại quốc gia giúp Việt Nam đạt những mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững đồng thời chủ động hơn nữa trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
"Mục tiêu chính của Việt Nam là trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Để làm được điều này thì cần nâng cao năng lực cạnh tranh ngay từ nội tại của nền kinh tế. Sau báo cáo này, Bộ Công Thương sẽ tham gia cùng ngân hàng thế giới xây dựng chương trình hành động để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế," Thứ trưởng Lê Dương Quang cho biết./.
Đức Duy (Vietnam+)