Báo Jakarta Post số ra mới đây có đăng bài viết với nhận định Chính phủ Indonesia đang tự tạo ra một thị trường nội địa cho các sản phẩm năng lượng mà các nước khác đang dần bỏ qua.
Việc thực hiện quá trình chuyển đổi năng lượng hiện là điều không thể tránh khỏi đối với mọi quốc gia.
Ngay cả trong bối cảnh đại dịch, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) nhận thấy năng lượng tái tạo được lắp đặt đã phát triển theo cấp số nhân để đạt gần 200 gigawatt (GW) trên toàn cầu, dù có hoặc không có sự hỗ trợ của chính phủ.
Ở một số thị trường, quá trình chuyển đổi năng lượng diễn ra với tốc độ không ai có thể đoán trước được. Không quốc gia nào có thể tránh khỏi sự gián đoạn nhanh chóng xảy ra trong lĩnh vực năng lượng toàn cầu.
[Indonesia khánh thành trang trại gió lớn nhất khu vực Đông Nam Á]
Những cải tiến công nghệ mới về cả cung và cầu đã thay đổi các yếu tố kỹ thuật và kinh tế. Năng lượng tái tạo hiện nay rẻ hơn bất kỳ nhiên liệu hóa thạch nào ở hầu hết các nơi trên thế giới. Indonesia cũng không ngoại lệ.
Nhu cầu điện giảm mạnh do tăng trưởng kinh tế chậm hơn đã buộc Công ty Điện lực Nhà nước (PLN) phải cân nhắc kỹ lại kế hoạch đầu tư.
Trong sáu tháng đầu năm 2020, PLN bắt đầu xây dựng thương hiệu thành một công ty tiện ích xanh thông qua một số sáng kiến được gọi là đột phá.
Trong tương lai, công ty tiện ích nhà nước cam kết cung cấp năng lượng sạch và bền vững cho Indonesia theo kỳ vọng của chính phủ, một biện pháp có khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư ESG (môi trường, xã hội và quản trị).
Bất chấp cam kết này, chính phủ dường như ủng hộ chiến lược ngược lại.
Trong khi các quốc gia trên toàn cầu đang cạnh tranh để đẩy nhanh sự phát triển của các công nghệ giảm phát khí thải vốn có như năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, Chính phủ Indonesia dường như đang tập trung vào các công nghệ đã được sử dụng từ thế kỷ trước.
Ba quyết định đầu tư năng lượng gần đây với sự hỗ trợ của chính phủ đòi hỏi phải được xem xét kỹ lưỡng khi Indonesia bước vào năm 2021.
Thứ nhất là dự án chuyển đổi đối với công nghệ hạ nguồn than. Chính phủ muốn biến than hạng thấp không bán được trong nước thành khí tổng hợp để sau đó được xử lý thành metanol, dimethyl ete (DME), urê và các hợp chất khác.
Sau đó, DME sẽ thay thế, ở một mức độ nào đó, nhập khẩu khí hóa lỏng (LPG), một mặt hàng gây thâm hụt thương mại của Indonesia.
Mặc dù công nghệ khí hóa than không phải là mới, nhưng chỉ có rất ít quốc gia đã từng áp dụng công nghệ này vì nó mang lại hiệu quả kinh tế thấp.
Ngoài ra, ưu đãi về thuế bằng 0 được ghi trong Luật tạo việc làm mới và Luật Khai thác để thúc đẩy sản xuất DME có thể làm giảm nguồn thu thuế.
Nhìn bề ngoài, sản xuất DME có thể mang lại an ninh năng lượng và thực sự mang lại lợi nhuận, nhưng xem xét kỹ hơn sẽ thấy rằng rất dễ gặp rủi ro về giá hàng hóa và có khả năng gây thêm gánh nặng cho ngân sách.
Một nghiên cứu gần đây của Viện Kinh tế năng lượng và phân tích tài chính (IEEFA) cho thấy nếu dự án DME trị giá 2 tỷ USD do công ty PT Bukit Asam thuộc sở hữu nhà nước tiến hành, khoản lỗ ước tính là 377 triệu USD mỗi năm.
Con số này sẽ vượt quá bất kỳ khoản tiết kiệm nào thu được từ việc giảm nhập khẩu LPG 19 triệu USD, với giả định rằng giá LPG toàn cầu vẫn dưới 470 USD/tấn.
Kế hoạch thứ hai của chính phủ nhằm tạo ra thị trường nội địa cho các sản phẩm nhiên liệu thô địa phương tập trung vào việc thay thế dầu diesel nhập khẩu bằng hỗn hợp dầu diesel sinh học B30, B50 và B100 để tận dụng thặng dư sản xuất dầu cọ của Indonesia.
Thật đáng tiếc, kế hoạch này phải chịu rủi ro về giá tương tự như các dự án sản xuất DME đã đề xuất.
Việc bỏ qua những thách thức kỹ thuật và tác động môi trường do các đồn điền dầu cọ rộng lớn và không bền vững của Indonesia, lợi nhuận tích cực từ dầu diesel sinh học chủ yếu dựa vào giá dầu cọ thô (CPO) và giá dầu diesel nhập khẩu của thời kỳ tương ứng.
Với chi phí sản xuất diesel sinh học cao, tính kinh tế sẽ chỉ chiếm ưu thế khi giá CPO đủ thấp để giá diesel sinh học cạnh tranh hơn so với diesel thông thường. Điều này hiếm khi xảy ra.
Giá nhiên liệu giảm mạnh trong năm 2020 khiến dầu diesel sinh học thậm chí còn kém kinh tế hơn.
Kể từ khi bắt đầu chương trình diesel sinh học bắt buộc vào năm 2015, việc phát triển diesel sinh học của Indonesia chủ yếu dựa vào các khoản trợ cấp được tài trợ bởi thuế xuất khẩu dầu cọ, được cung cấp thông qua Cơ quan quản lý Quỹ trồng dầu cọ (BPDPKS).
Vào năm 2020, khoản kích thích bổ sung trị giá 2.780 tỷ Rp (192 triệu USD) đã được phân bổ trong ngân sách nhà nước để bù đắp sự chênh lệch giá ngày càng tăng giữa dầu diesel sinh học và dầu diesel thông thường.
Sản xuất diesel sinh học có thể sẽ tiếp tục là gánh nặng tài chính lớn đối với nền kinh tế Indonesia, làm xáo trộn các kế hoạch về an ninh năng lượng.
Thứ ba, dự án năng lượng của PLN theo đuổi việc luyện than trên quy mô lớn bằng cách chuyển đổi 114 tổ máy tại các nhà máy nhiệt điện than 18 GW hiện có của PLN để đáp ứng 5-10% than sinh khối. Đề xuất này có vẻ hấp dẫn.
Việc đốt cháy có khả năng kéo dài tuổi thọ của đội tàu than cũ của PLN, ngoài việc đóng góp ít khí thải carbon hơn vào bầu khí quyển. Tuy nhiên, việc thực hiện có thể sẽ khó khăn và tốn kém do nhu cầu về nguồn cung cấp nguyên liệu bền vững cùng với giá sinh khối cao.
Có sự cạnh tranh gay gắt đối với sinh khối cao cấp như mùn cưa từ các nước như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Để tiếp tục đề xuất này, giá trần cho sinh khối sẽ cần phải được đặt ra như một chìa khóa để đánh giá sự thu hút của các nhà đầu tư sinh khối trong việc xây dựng ngành chuỗi giá trị cần thiết để hỗ trợ nó.
Ngoài các yếu tố kỹ thuật, việc luyện than sẽ không được các nhà đầu tư ESG đón nhận, vì nó kéo dài tuổi thọ của các nhà máy than phát thải cao.
PLN đang có kế hoạch phát hành trái phiếu xanh, bền vững vào đầu năm 2021, nhưng những gì PLN cho là "xanh" có thể khác với những gì nhà đầu tư mong đợi.
Điều này có thể đưa PLN vào guồng quay khi phải vật lộn để cải thiện tình trạng tài chính yếu kém của mình do tác động của đại dịch COVID-19.
Indonesia có nhiều lựa chọn năng lượng. Nỗ lực phối hợp của chính phủ trong việc sử dụng các nguồn nhiên liệu thông thường trong nước, mặc dù với mục đích tốt, nhưng đi ngược lại với xu hướng năng lượng toàn cầu, dựa trên công nghệ trong 5 năm qua.
Indonesia có nhiều lựa chọn nhiên liệu tái tạo và bền vững có thể được ưu tiên thay thế như năng lượng Mặt Trời và gió là miễn phí và không có rủi ro về giá cả.
Khi xem xét đầu tư vào cơ sở hạ tầng năng lượng ngày càng lỗi thời, chính phủ nên cân nhắc giữa chi phí để đạt được sự độc lập về năng lượng và các khoản trợ cấp cần thiết để cung cấp cho các nguồn nhiên liệu trước đây.
Đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo rẻ hơn, giảm phát là lựa chọn tốt hơn cho PLN và chính phủ khi Indonesia bước vào giai đoạn phục hồi kinh tế./.