14 năm nay, ở xã Kim Lan, huyện Gia Lâm, Hà Nội có một ông già tên Nguyễn ViệtHồng, ngày ngày vẫn lặng thầm đi gom nhặt những mảnh gốm, sành lở ra ở bãi HàmRồng của dòng sông Hồng ngàn năm, mang về chất đầy nhà.
Mọi người vẫn coi ông là “khùng”, vì cho rằng việc làm của ông là… vô tích sự.Chỉ khi Viện Khảo cổ học Việt Nam và Viện Bảo tàng lịch sử về khai quật và Nhànước công nhận đây là Di chỉ quốc gia, dân ở đây mới hiểu hết giá trị công việcmà ông “khùng” đã làm lâu nay.
Người "giàu có" của Bát Tràng
Khi chúng tôi tìm đến nhà, cũng là lúc ông Hồng đang cho mẻ gốm cuối cùng vàolò. Trong cái nắng oi nồng ngày đầu tháng 9, người ông ướt sũng mồ hôi. Đã bướcsang tuổi 74, nhưng trông ông vẫn rất nhanh nhẹn.
Ngôi nhà 5 gian hai chái cũ kỹ nằm chênh vênh sát bên bờ sông Hồng, trước cửa làcái sân lát gạch Bát Tràng nâu đỏ đã được phơi kín các loại khuôn gốm, bát,đĩa...
Dẫn chúng tôi ra bờ sông Hồng vào mùa này nước nổi, ông Hồng chỉ tay cho biết,bên kia là bãi ngô ngút ngàn của đất Lĩnh Nam, được phù sa bồi đắp còn bên nàylà bãi lở Hàm Rồng đang ngày ngày ngậm ngùi ngoạm từng thớ đất của làng, cuốntheo bao di chỉ quý của đất Kim Lan.
“Bây giờ tôi đang sở hữu cả vài hũ tiền Khai nguyên thông bảo, Hoàng tống thôngbảo, Thiên phúc chân bảo... Có trong tay hàng nghìn di chỉ gốm, sành thuộc cácniên đại từ thế kỷ VII-XVII. Tất cả đều được tôi nhặt nhạnh từ bãi Hàm Rồngđấy!”, ông Hồng hãnh diện khoe.
Trong “Bảo tàng cổ vật mini” của mình ở ngay trong gian buồng chỉ rộngchừng chục mét vuông, ông xếp chật kín các loại đồ gốm cổ, từ đồ gốm thời Đườngthế kỷ VIII-IX, thời Trần thế kỷ XIV cho đến các loại đồ gốm thời Lê, Mạc thế kỷXVI.
Ông Hồng cho biết, mọi việc bắt đầu vào một ngày đầu năm 1996. Hôm ấy, hai ôngbà đang cho mẻ gốm ra lò thì nghe mấy đứa cháu kháo nhau chuyện lũ trẻ trong xómlúc tắm sông nhặt được một hũ tiền xu bằng đồng và đem đi đổi kem. Ông vội vã bỏdở công việc, chạy theo chị đồng nát để chuộc lại hũ tiền xu, nhưng không tìmđược.
Lúc này bọn trẻ vẫn còn chừng 2kg tiền xu, ông đã mua về và mân mê nhìn ngắmnhững đồng tiền đã hoen gỉ. Bỏ lại đằng sau những cái nhìn lạ lẫm của người dân,ông Hồng vui sướng vì biết rằng, đó là những đồng tiền cổ, có niên đại hàngnghìn năm vô cùng quý giá.
Ông giải thích cho bọn trẻ hiểu được giá trị của những đồng tiền cũ kỹ ấy và dặntrong làng hễ nhặt được những mảnh gốm sứ hay tiền xu nào thì đem đến, ông sẽcho tiền mua kem, mua kẹo.
Và rồi, bọn trẻ trong làng lại vớt được một hũ tiền đồng mang đến tìm ông, cảthảy cân được 18kg tiền đồng, ông đã mua lại của bọn trẻ.
Chủ nhân của 2.000 cổ vật
Với kinh nghiệm gần 30 năm làm đồ gốm, ông Hồng hiểu rằng, đây là những di chỉquý giá, nên sau đó, những lúc rảnh rỗi, ông đã âm thầm theo chân lũ trẻ ra bờsông tìm kiếm, nhặt nhạnh những mảnh gốm vỡ vô hồn kia đem về xếp đầy góc nhà,coi đó như một thú vui.
Rồi một “đoàn khảo cổ” của làng Kim Lan đã được thành lập, dẫn đầu là ông giàđầu tóc bạc phơ và theo sau là một lũ nhóc nhí nhố. Ông Hồng vui vì “được đi sưutầm “lịch sử” của làng, của nước”.
Ông Hồng tự học thêm chữ Hán, tìm đọc sách lịch sử, ông cũng không ngại gian khóđi tìm các văn bản, đồ vật, văn bia ở các đình chùa, miếu mạo để nghiên cứu.
Chúng tôi đã bị hút hồn khi nghe ông say sưa giảng giải về lịch sử, ý nghĩa củacác di chỉ, cổ vật và phần nào hiểu được tấm lòng yêu mến, gắn bó của ông đốivới những đồng tiền xu, những mảnh gốm sứ và với làng quê, đất nước.
“Trong quá trình hình thành và phát triển, đã có nhiều nền văn hóa của các dântộc phát triển trên đất Việt. Trong đó, riêng thời đại kim khí ở Việt Nam đã có3 nền văn hóa là văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, vănhóa Đồng Nai ở phía Nam. Cổ vật văn hóa Đông Sơn thường được biết đến là đồ đồngvà đồ gốm, trong đó nổi tiếng là những chiếc trống đồng loại I và các loại daogăm đồng...”, ông nói.
Hiện nay, ngoài những di vật đã đem tặng cho Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam vàViện Khảo cổ học Việt Nam, ông Hồng vẫn còn sở hữu khoảng trên 2.000 cổ vật.Trong đó, có những di vật cổ quý như bản Ngọc Phả của làng do Nguyễn Bính (Đạihọc sĩ Viện Đông các Hàn lâm) soạn năm 1472, Phù hương Long Mã (lư hương thânrồng đầu ngựa), tháp nhiều tầng bốn mặt gắn tượng phật… và rất nhiều tiền cổthuộc nhiều niên đại khác nhau.
Vợ chồng Tiến sỹ Khảo cổ học người Nhật Bản Nishimura Masanari và Noriko đãnhiều lần về Kim Lan, tìm đến nhà ông Hồng để nghiên cứu và làm luận văn vềnhững cổ vật nơi đây. Theo họ, những cổ vật mà ông Hồng đang sở hữu là vô cùngquý giá.
Cũng qua vợ chồng Tiến sỹ người Nhật Bản này, con đường bê tông dài 700m củalàng đã được Đại sứ quán Nhật Bản tài trợ xây dựng.
Ông Trương Mạnh Truyền - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Kim Lan cho biết tháng 10tới, nhà trưng bày cổ vật của xã Kim Lan sẽ được khởi công xây dựng, với tổngmức đầu tư hơn 1 tỷ đồng do vợ chồng Tiến sỹ người Nhật Bản và những “MạnhThường Quân” khác tài trợ.
Dự kiến, nhà trưng bày cổ vật sẽ khánh thành vào đầu tháng 10/2010, đúng dịp đạilễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội./.
Mọi người vẫn coi ông là “khùng”, vì cho rằng việc làm của ông là… vô tích sự.Chỉ khi Viện Khảo cổ học Việt Nam và Viện Bảo tàng lịch sử về khai quật và Nhànước công nhận đây là Di chỉ quốc gia, dân ở đây mới hiểu hết giá trị công việcmà ông “khùng” đã làm lâu nay.
Người "giàu có" của Bát Tràng
Khi chúng tôi tìm đến nhà, cũng là lúc ông Hồng đang cho mẻ gốm cuối cùng vàolò. Trong cái nắng oi nồng ngày đầu tháng 9, người ông ướt sũng mồ hôi. Đã bướcsang tuổi 74, nhưng trông ông vẫn rất nhanh nhẹn.
Ngôi nhà 5 gian hai chái cũ kỹ nằm chênh vênh sát bên bờ sông Hồng, trước cửa làcái sân lát gạch Bát Tràng nâu đỏ đã được phơi kín các loại khuôn gốm, bát,đĩa...
Dẫn chúng tôi ra bờ sông Hồng vào mùa này nước nổi, ông Hồng chỉ tay cho biết,bên kia là bãi ngô ngút ngàn của đất Lĩnh Nam, được phù sa bồi đắp còn bên nàylà bãi lở Hàm Rồng đang ngày ngày ngậm ngùi ngoạm từng thớ đất của làng, cuốntheo bao di chỉ quý của đất Kim Lan.
“Bây giờ tôi đang sở hữu cả vài hũ tiền Khai nguyên thông bảo, Hoàng tống thôngbảo, Thiên phúc chân bảo... Có trong tay hàng nghìn di chỉ gốm, sành thuộc cácniên đại từ thế kỷ VII-XVII. Tất cả đều được tôi nhặt nhạnh từ bãi Hàm Rồngđấy!”, ông Hồng hãnh diện khoe.
Trong “Bảo tàng cổ vật mini” của mình ở ngay trong gian buồng chỉ rộngchừng chục mét vuông, ông xếp chật kín các loại đồ gốm cổ, từ đồ gốm thời Đườngthế kỷ VIII-IX, thời Trần thế kỷ XIV cho đến các loại đồ gốm thời Lê, Mạc thế kỷXVI.
Ông Hồng cho biết, mọi việc bắt đầu vào một ngày đầu năm 1996. Hôm ấy, hai ôngbà đang cho mẻ gốm ra lò thì nghe mấy đứa cháu kháo nhau chuyện lũ trẻ trong xómlúc tắm sông nhặt được một hũ tiền xu bằng đồng và đem đi đổi kem. Ông vội vã bỏdở công việc, chạy theo chị đồng nát để chuộc lại hũ tiền xu, nhưng không tìmđược.
Lúc này bọn trẻ vẫn còn chừng 2kg tiền xu, ông đã mua về và mân mê nhìn ngắmnhững đồng tiền đã hoen gỉ. Bỏ lại đằng sau những cái nhìn lạ lẫm của người dân,ông Hồng vui sướng vì biết rằng, đó là những đồng tiền cổ, có niên đại hàngnghìn năm vô cùng quý giá.
Ông giải thích cho bọn trẻ hiểu được giá trị của những đồng tiền cũ kỹ ấy và dặntrong làng hễ nhặt được những mảnh gốm sứ hay tiền xu nào thì đem đến, ông sẽcho tiền mua kem, mua kẹo.
Và rồi, bọn trẻ trong làng lại vớt được một hũ tiền đồng mang đến tìm ông, cảthảy cân được 18kg tiền đồng, ông đã mua lại của bọn trẻ.
Chủ nhân của 2.000 cổ vật
Với kinh nghiệm gần 30 năm làm đồ gốm, ông Hồng hiểu rằng, đây là những di chỉquý giá, nên sau đó, những lúc rảnh rỗi, ông đã âm thầm theo chân lũ trẻ ra bờsông tìm kiếm, nhặt nhạnh những mảnh gốm vỡ vô hồn kia đem về xếp đầy góc nhà,coi đó như một thú vui.
Rồi một “đoàn khảo cổ” của làng Kim Lan đã được thành lập, dẫn đầu là ông giàđầu tóc bạc phơ và theo sau là một lũ nhóc nhí nhố. Ông Hồng vui vì “được đi sưutầm “lịch sử” của làng, của nước”.
Ông Hồng tự học thêm chữ Hán, tìm đọc sách lịch sử, ông cũng không ngại gian khóđi tìm các văn bản, đồ vật, văn bia ở các đình chùa, miếu mạo để nghiên cứu.
Chúng tôi đã bị hút hồn khi nghe ông say sưa giảng giải về lịch sử, ý nghĩa củacác di chỉ, cổ vật và phần nào hiểu được tấm lòng yêu mến, gắn bó của ông đốivới những đồng tiền xu, những mảnh gốm sứ và với làng quê, đất nước.
“Trong quá trình hình thành và phát triển, đã có nhiều nền văn hóa của các dântộc phát triển trên đất Việt. Trong đó, riêng thời đại kim khí ở Việt Nam đã có3 nền văn hóa là văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, vănhóa Đồng Nai ở phía Nam. Cổ vật văn hóa Đông Sơn thường được biết đến là đồ đồngvà đồ gốm, trong đó nổi tiếng là những chiếc trống đồng loại I và các loại daogăm đồng...”, ông nói.
Hiện nay, ngoài những di vật đã đem tặng cho Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam vàViện Khảo cổ học Việt Nam, ông Hồng vẫn còn sở hữu khoảng trên 2.000 cổ vật.Trong đó, có những di vật cổ quý như bản Ngọc Phả của làng do Nguyễn Bính (Đạihọc sĩ Viện Đông các Hàn lâm) soạn năm 1472, Phù hương Long Mã (lư hương thânrồng đầu ngựa), tháp nhiều tầng bốn mặt gắn tượng phật… và rất nhiều tiền cổthuộc nhiều niên đại khác nhau.
Vợ chồng Tiến sỹ Khảo cổ học người Nhật Bản Nishimura Masanari và Noriko đãnhiều lần về Kim Lan, tìm đến nhà ông Hồng để nghiên cứu và làm luận văn vềnhững cổ vật nơi đây. Theo họ, những cổ vật mà ông Hồng đang sở hữu là vô cùngquý giá.
Cũng qua vợ chồng Tiến sỹ người Nhật Bản này, con đường bê tông dài 700m củalàng đã được Đại sứ quán Nhật Bản tài trợ xây dựng.
Ông Trương Mạnh Truyền - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Kim Lan cho biết tháng 10tới, nhà trưng bày cổ vật của xã Kim Lan sẽ được khởi công xây dựng, với tổngmức đầu tư hơn 1 tỷ đồng do vợ chồng Tiến sỹ người Nhật Bản và những “MạnhThường Quân” khác tài trợ.
Dự kiến, nhà trưng bày cổ vật sẽ khánh thành vào đầu tháng 10/2010, đúng dịp đạilễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội./.
(Tin Tức/Vietnam+)