Vượt hàng chục cây số đường rừng trơn trượt, quấn xích vào xe mà đi, bất đồng về ngôn ngữ và phong tục tập quán, phải sống xa gia đình, xa cả các con để cắm bản chăm sóc cho trẻ em miền núi, nhưng các giáo viên vẫn không hề nản lòng. Họ coi các em như con mình và hết lòng tận tụy...
“Con mình không chăm, chăm con thiên hạ”
Năm nay đã là 18 mùa khai trường cô Lường Thị Hải, Trường Tiểu học Mường Bám 1, xã Mường Bám, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La gắn bó với giáo dục vùng cao. Là giáo viên cắm bản lâu nhất ở mảnh đất Mường Bám, cũng là 18 năm cô Hải gắn bó với học sinh lớp 1.
Do học sinh đều là người dân tộc thiểu số nên dạy học sinh lớp 1, thách thức lớn nhất với giáo viên là các em không biết tiếng phổ thông, chưa quen nề nếp, giáo viên phải dạy các em từ cách đi đứng, chào hỏi, từng từ tiếng Kinh đến cầm phấn, cầm bút...
“Mấy ngày đầu nhận lớp tôi cũng nản, nhưng rồi nghĩ học trò như con mình, lại thiếu ăn, thiếu mặc... thương các em nghèo khó mà cố gắng,” cô Hải nhớ lại.
Học sinh của cô đến từ 4 bản lẻ Nặm Ún, Thẳm Đón, Pá Ban, Căm Cặn, có em nhà cách trường đến 10 cây số. Các em còn nhỏ, việc đi lại rất khó khăn vì phải lên dốc, xuống đèo, qua suối. Xa xôi là thế, nhưng những ngày đầu tiên, cứ chiều đến là có mấy em học sinh cầm túi quần áo đòi về. Cô Hải thủ thỉ hỏi lý do mới biết các em xin về để... tắm.
Thế là ngày nào cũng vậy, sau giờ học, cô Hải tắm cho hơn hai chục học sinh, giặt hai chậu quần áo đầy. Được cô tắm gội cho sạch sẽ, học sinh vui lắm, thoải mái và siêng học, tỷ lệ học sinh ra lớp và chuyên cần đạt 100%.
Hai con đều học nội trú xa nhà, cô Hải bảo, nhiều lúc nhìn học sinh lại chạnh lòng nhớ con. “Đồng nghiệp cứ trêu: Con mình không chăm, đi chăm con thiên hạ...,” nhưng tôi lại nhủ lòng, mình thương con người ta thì sẽ có nhiều người khác thương con mình. Có lần nghe con nói: “Cô giáo con bảo chưa thấy ba mẹ đi họp phụ huynh bao giờ, toàn thấy cậu mợ đi họp thay.” Nghe con nói cũng nghẹn lòng, nhưng tôi cũng đành xin lỗi con vì bố mẹ đều là giáo viên cắm bản,” cô Hải xúc động nói.
Xa con, thương các con bao nhiêu, cô Hải lại thương học trò nghèo khó của mình bấy nhiêu. Có những khi giữa trời nắng chang chang, thấy một học sinh mặc áo len, hỏi ra mới biết rằng em chỉ có hai bộ quần áo mà giặt chưa khô, cô lại về nhà tìm bộ quần áo của con mang sang cho học trò...
Vượt rừng tới lớp
Với cô Bàn Thị Mai, Trường Mầm non Đồng Sơn, xã Đồng Sơn, huyện Hoàng Bồ, tỉnh Quảng Ninh, con đường mòn 23 cây số từ nhà đến trường đã trở nên quen thuộc trong suốt 12 năm qua.
Gắn bó với ngôi trường ngay từ khi tốt nghiệp, cô Mai vẫn nhớ ngày đầu tiên nhận công tác, lớp học chỉ được ghép từ những mảnh gỗ mỏng, ánh sáng xuyên qua khe gỗ. Mái trường được lợp bằng những chiếc lá cọ, nền nhà là đất đỏ. Những ngày mưa dầm, gió rét, cái lạnh buốt luồn qua từng khe gỗ. Mùa hè, những chiếc lá cọ mỏng manh không chịu được những cơn mưa xối xả ập xuống, nước mưa làm ướt cả cô trò.
Khó khăn là thế nhưng suốt 12 năm qua, tuần nào cũng vậy, mỗi buổi sáng thứ hai, trên còn đường mòn dài 23 cây số, cô Hải vẫn miệt mài đến với đàn con thân yêu. Có những ngày mưa lũ ập đến, không thể qua suối về khu tập thể của giáo viên, cô phải ở lại lớp học một mình với trang giáo án và chiếc đèn dầu nhỏ. Những lớp học trò nhờ bàn tay cô chăm sóc giờ đây đã lớn, có em đã trở thành những học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh.
Với cô Nguyễn Vân Nhi, giáo viên Trường Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở Tô Hiệu (xã Cư San, huyện M’Đrăk, tỉnh Đăk Lăk) ngôi trường vùng sâu vùng xa nhất của huyện M’Đrăk, quãng đường băng rừng lội suối đến trường còn xa hơn rất nhiều.
M’Đrăk là một trong những huyện đặc biệt khó khăn của tỉnh Đăk Lăk, cách xa trung tâm tỉnh Đăk Lăk 90 km. Xã Cư San các trung tâm huyện hơn 50 km đường rừng. Năm 2012, nhận quyết định về dạy tại trường, cô giáo trẻ Vân Nhi vô cùng háo hức, nhưng hành trình đến trường lại quá gian nan. Vì chưa rành địa hình nên cô đi nhờ xe một thầy giáo để vào trường. Đường lầy lội sau những ngày mưa dầm, ổ voi ổ gà nhiều không đếm xuể, những vũng bùn sâu hoắm trơn trượt, những đoạn đá lởm chởm làm cho bánh xe liên tục chệch hướng. Đường trơn trượt không thể lái xe, hai thầy cô đành xuống dắt bộ hàng cây số, có đoạn cả hai phải hợp sức lôi xe lên khỏi vũng lầy.
“Sau một thời gian công tác, tôi càng có cơ hội trải nghiệm nhiều cung đường đến trường đường còn thú vị hơn. Đi băng qua rừng hoặc vòng qua huyện khác, vượt đò qua suối lớn mới đến được trường. Có lúc hỏng xe dắt bộ trong rừng hay có những ngày thời tiết quá xấu phải đi 8 tiếng mới đến nơi. Cũng có đôi lúc hoảng sợ rơi nước mắt trên đường vắng tối om nhưng chưa một lần nào tôi nản lòng hoặc muốn bỏ về thị trấn,” cô Nhi chia sẻ.
Để hiểu thêm về học sinh khi hầu hết các em là người dân tộc thiểu số, sau mỗi giờ học, cô Nhi tranh thủ trò chuyện với học trò để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em. Thời gian rảnh, cô ghé thăm nhà học sinh để biết thêm về phong tục tập quán nơi đây. Cô tìm tòi những phương pháp sáng tạo mới để thu hút các em vào bài giảng, tổ chức các hoạt động ngoại khóa để các em thêm mạnh dạn, tự tin.
“Nhiều người bảo tôi ‘ngược đời’ vì đã đủ thời gian công tác ở vùng sâu mà không chịu xin về vùng thuận lợi. Nhưng tôi yêu mến mái trường, yêu mến người dân và mảnh đất khô cằn, yêu mến đàn trẻ thơ có sức sống mãnh liệt nơi đây,” cô Nhi xúc động nói./.