Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: Uy tín của sản phẩm, sự vươn lên tầm toàn cầu của doanh nghiệp là dựa vào khoa học, công nghệ và đầu tư của doanh nghiệp là nòng cốt cho phát triển khoa học và công nghệ.
Bên thềm Xuân mới, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Chu Ngọc Anh tin tưởng rằng thông điệp của người đứng đầu Chính phủ đối với cộng đồng khoa học-công nghệ và doanh nghiệp Việt Nam sẽ được triển khai thực hiện hiệu quả.
Thông điệp nhấn mạnh sâu sắc và rõ ràng: Khoa học và công nghệ là động lực tăng trưởng của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập, vì vậy doanh nghiệp phải là chủ thể chính đầu tư cho khoa học và công nghệ để tăng năng lực cạnh tranh quốc tế và vươn ra thị trường toàn cầu.
Đối với lực lượng khoa học và công nghệ, con đường ngắn nhất để để chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành giá trị gia tăng cho xã hội là song hành cùng doanh nghiệp, giải quyết vấn đề của doanh nghiệp, chia sẻ lợi ích cùng doanh nghiệp.
Thực tế, các hình mẫu doanh nghiệp thành công vươn tầm quốc tế, khẳng định được vai trò, sức mạnh của doanh nghiệp là nhờ đầu tư mạnh cho khoa học và công nghệ, các Tập đoàn lớn trong nước mang thương hiệu Việt như Viettel, FPT, Vinamilk...
Đặc biệt, năm 2016, số lượng doanh nghiệp mới thành lập của Việt Nam tăng kỷ lục với hơn 110.000 doanh nghiệp và quy mô vốn tăng 48%. Đây là tín hiệu “hứa hẹn” sự khởi sắc của nền kinh tế khi số lượng doanh nghiệp gia tăng, tạo nhiều cơ hội việc làm và sản phẩm, dịch vụ mới cho xã hội. Việt Nam sẽ phát triển và khẳng định được vai trò của mình hơn nếu chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam cũng được gia tăng mạnh mẽ với ngày càng nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên đổi mới sáng tạo, thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ, khai thác tài sản trí tuệ hay mô hình kinh doanh mới.
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và cạnh tranh toàn cầu khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có năng lực cạnh tranh quốc tế và khu vực. Đồng thời, tác động tất yếu của làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0 buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới để ứng phó được với các thách thức lớn chưa từng có.
Phép thử đối với khoa học và công nghệ Việt Nam là làm sao góp phần gia tăng số lượng các doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao, có sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu được ra thị trường quốc tế, để đến năm 2020, Việt Nam không chỉ đạt mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp, mà quan trọng hơn, có một lực lượng doanh nghiệp thực sự mạnh, đủ năng lực cung cấp các sản phẩm và dịch vụ mang thương hiệu Việt với chất lượng và độ tinh xảo cao, chiếm lĩnh được thị trường toàn cầu.
Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam phải dũng cảm thay đổi, trước hết trong tư duy chiến lược về quản lý hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Đầu tư cho khoa học và công nghệ không chỉ là chi tiền cho hoạt động nghiên cứu khoa học v à phát triển công nghệ (R&D) để tạo ra tri thức mà quan trọng hơn, cần đầu tư cho đổi mới sáng tạo (Innovation) và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu để biến tri thức trở lại thành tiền và giá trị gia tăng cho xã hội.
Các chỉ số chính để đo lường hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ (KPIs), bên cạnh số lượng bài báo và sáng chế như hiện nay, cần bổ sung các chỉ số thực dụng hơn về doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được thành lập trên cơ sở kết quả nghiên cứu, cơ hội việc làm, doanh thu, đặc biệt là sản phẩm, dịch vụ mới cung cấp cho thị trường, người dân và xã hội.
Đó cũng là mục đích và sứ mệnh của một nền khoa học và công nghệ vị nhân sinh khi kết quả và hiệu quả của hoạt động nghiên cứu được đo lường gián tiếp bằng các sản phẩm, dịch vụ mới an toàn và chất lượng cho người dân trong nước, có độ tinh xảo và tính cạnh tranh cao để vươn ra thị trường quốc tế.
Vai trò đầu tư của doanh nghiệp và xã hội trong chuỗi hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo nói trên là vô cùng quan trọng. Nhà nước có thể đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng và một phần của hoạt động nghiên cứu ứng dụng.
Tuy nhiên, để đưa các kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm ra thị trường, ứng dụng được trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo thành sản phẩm, dịch vụ mới v à giá trị gia tăng cho xã hội, thì cần sự đầu tư có trách nhiệm của các lực lượng xã hội, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần cơ chế đối tác hợp tác công-tư thực sự hiệu quả để huy động nguồn lực đầu tư cho khoa học-công nghệ, trong đó các bên tham gia ý thức được rõ trách nhiệm và lợi ích của mình. Lợi ích của doanh nghiệp gắn liền với đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp cho hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, đối với khu vực công gồm các cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, cần nhận thức rõ sứ mệnh “kiến tạo” và trách nhiệm xã hội là mang lại các lợi ích thiết thực, mang tính chiến lược cho người dân, cộng đồng , doanh nghiệp và đất nước.
Với tinh thần đó, bước sang năm 2017, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục đồng hành cùng lực lượng khoa học và công nghệ và các doanh nghiệp Việt Nam, tăng cường đối thoại và hợp tác, triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ khoa học và công nghệ giải quyết được các nhu cầu bức thiết từ thực tiễn phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực, đưa khoa học và công nghệ đóng góp mạnh mẽ hơn tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân./.