Chiều 23/7, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đã trình bày Tờ trình về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh đã báo cáo thẩm tra nội dung này.
Theo đó, tổng nguồn vốn đề xuất thực hiện đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 (theo Tờ trình 143/TTr-CP của Chính phủ) được điều chỉnh giảm từ 90.260 tỷ đồng xuống còn 75.000 tỷ đồng.
Thành tựu lớn thúc đẩy nỗ lực thoát nghèo
Trình bày về sự cần thiết của việc xây dựng chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết Đảng và Nhà nước ta xác định công tác giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, quan trọng, nhất quán, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
Những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp luôn quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, cùng với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và sự nỗ lực của toàn dân, kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
Cụ thể, trong giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4%/năm, có hơn 8 triệu người thoát nghèo, cận nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo cuối năm 2020 giảm xuống còn 23,42%, trung bình giảm 5,4%/năm; có 32 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, 125 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới…
Đặc biệt, Việt Nam lần đầu tiên và là một trong 30 quốc gia áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu gắn với mục tiêu phát triển bền vững; đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xoá đói, giảm nghèo, được quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới.
[“Giải phóng đất nông lâm trường: Cần ‘cuộc cách mạng’ quyết liệt hơn”]
“Kết quả trên có ý nghĩa rất to lớn, khẳng định ý chí, quyết tâm cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và toàn dân ta trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ ta,” Bộ trưởng Dung nhấn mạnh.
Mặc dù vậy, vị tư lệnh ngành Lao động Thương binh và Xã hội cũng thừa nhận, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhiều huyện nghèo, xã vùng bãi ngang ven biển và hải đảo vẫn chưa thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Các địa phương này là vùng “lõi nghèo” có địa hình hiểm trở, kinh tế-xã hội và cơ sở hạ tầng còn khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Một số nơi có tỷ lệ hộ nghèo còn trên 40% như huyện Mường Nhé (Điện Biên) là 59,97%, huyện Nậm Pồ (Điện Biên) là 51,74%, huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) là 42,21%, huyện Đồng Văn (Hà Giang) là 41,96%. Tỷ lệ tái nghèo, tỷ lệ hộ nghèo phát sinh còn cao do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, ốm đau.
Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo còn dàn trải, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn; nhiều công trình phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội ở địa bàn nghèo có quy mô nhỏ nên hiệu quả sử dụng, tác động đến đời sống dân sinh, phục vụ sản xuất còn hạn chế…
Vì thế, để tiếp tục phát huy các thành tựu và khắc phục tồn tại, hạn chế trong công tác giảm nghèo thời gian qua, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định việc xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 là rất cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Phấn đấu giảm 1/2 hộ nghèo và cận nghèo
Theo Bộ Đào Ngọc Dung, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, tổng nguồn vốn đề xuất thực hiện chủ trương đầu tư này (theo Tờ trình 143/TTr-CP ngày 21/5/2021 của Chính phủ) đã được điều chỉnh giảm từ 90.260 tỷ đồng xuống còn 75.000 tỷ đồng.
Trong số đó, vốn ngân sách Trung ương là 48.000 tỷ đồng (vốn đầu tư tối thiểu 20.000 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 28.000 tỷ đồng); ngân sách địa phương 12.690 tỷ đồng (vốn đầu tư 2.200 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 10.490 tỷ đồng); huy động hợp pháp khác 14.310 tỷ đồng (vốn đầu tư 2.600 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 11.710 tỷ đồng).
Đối tượng thụ hưởng của chương trình là các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo trên phạm vi cả nước. Chú trọng hỗ trợ trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ và người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người dân sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; trung tâm dịch vụ việc làm vùng nghèo, khó khăn…
Phạm vi thực hiện chương trình thực hiện trên phạm vi cả nước; trong đó tập trung đầu tư cho các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; khuyến khích các địa phương vận dụng các cơ chế, chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội đặc thù áp dụng cho các đối tượng trên địa bàn bằng nguồn lực của địa phương và huy động hợp pháp khác.
Chương trình phấn đấu giảm 1/2 số hộ nghèo, hộ cận nghèo so với đầu kỳ theo tiêu chí nghèo đa chiều của quốc gia; 30% số huyện nghèo, 30% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ người lao động thuộc vùng nghèo, vùng khó khăn qua đào tạo đạt 60%, trong đó có bằng cấp chứng chỉ là 25%; 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề…
Chương trình gồm 6 dự án và 11 tiểu dự án. Dự án 1 là hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; Dự án 2 đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo; Dự án 3 hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện dinh dưỡng; Dự án 4 phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm và nhà ở; Dự án truyền thông và giảm nghèo về thông tin; Dự án 6 nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá Chương trình.
Tiến tới giảm tỷ lệ tái nghèo, hộ nghèo phát sinh
Thẩm tra báo cáo của Chính phủ, Ủy ban Xã hội của Quốc hội cơ bản tán thành với sự cần thiết xây dựng Chương trình và thống nhất với tên gọi của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.
Báo cáo tại Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh khẳng định Ủy ban cơ bản tán thành với đánh giá về hiệu quả kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững của Chương trình.
Tuy nhiên, Ủy ban Xã hội của Quốc hội nhận thấy để giảm nghèo đa chiều thực sự bền vững, phải giảm tỷ lệ tái nghèo, tỷ lệ hộ nghèo phát sinh. Do vậy, Chương trình cần có các giải pháp thoát nghèo bền vững, đủ sức chống chịu, vượt qua các thách thức của thiên tai, dịch bệnh như thông qua tạo việc làm cho người nghèo, đảm bảo mỗi hộ nghèo có ít nhất một việc làm bền vững, tạo điều kiện cho hộ nghèo được tiếp cận với các chiều dịch vụ xã hội cơ bản thực sự bền vững; dự báo kết quả duy trì các mục tiêu, chỉ tiêu sau khi chương trình kết thúc để đánh giá...
Ủy ban Xã hội của Quốc hội thống nhất với dự kiến bố trí 20.000 tỷ đồng vốn đầu tư từ ngân sách Trung uơng đồng thời đề nghị Chính phủ cần khẩn trương rà soát không sử dụng vốn của chương trình để chi các hoạt động có tính chất chi thường xuyên thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước hoặc chế độ, chính sách cho đối tượng đã được quy định tại pháp luật có liên quan; bảo đảm đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, không phân tán, dàn trải, manh mún; phải đúng, phải trúng các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội đề ra.
Cùng với đó, Ủy ban Xã hội của Quốc hội cũng đề nghị Chính phủ cần bảo đảm tính khả thi của việc bố trí vốn ngân sách trung ương trong năm 2021 cho chương trình là 7.000 tỷ đồng để tránh gián đoạn, giảm hiệu quả thực hiện chương trình; cân nhắc việc bố trí tỷ trọng vốn lớn vào năm 2025 là năm cuối cùng của giai đoạn; không nên huy động ngân sách địa phương quá lớn khi hầu hết các địa phương đều gặp khó khăn về nguồn thu do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Ngoài ra, Ủy ban Xã hội của Quốc hội đề nghị Chính phủ có kế hoạch bổ sung nguồn vốn cần đầu tư thêm cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội đối với các đối tượng của chương trình./.