Mùa Xuân năm 1930, Đảng ra đời, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, tổ chức và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Kể từ đây, cách mạng Việt Nam bước sang một thời kỳ mới. Người có vai trò quyết định cho sự ra đời của Đảng là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Tìm ra con đường cứu nước, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Năm 1858, thực dân Pháp tiến công Đà Nẵng, mở đầu quá trình xâm lược Việt Nam. Gần 30 năm sau, vua quan nhà Nguyễn “để cho đế quốc Pháp đạp trên đầu,” buộc phải ký các hàng ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884), làm cho “hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa.” Bóng mây đen của chủ nghĩa thực dân bao trùm toàn cõi Việt Nam. Cả dân tộc bước vào một mùa đông khắc nghiệt.
Tuy nhiên, sự thống trị, áp bức và bóc lột dân tộc càng tăng thì mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa đế quốc càng sâu sắc, cuộc đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng quyết liệt, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức.
Với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra liên tục và anh dũng, nhưng đều bị đế quốc Pháp dìm trong biển máu.
Sau khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, tới nhiều quốc gia trên thế giới, ở cả phương Đông và phương Tây, nhất là các nước tư bản phát triển; vừa nghiên cứu lý luận, vừa khảo sát thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đến với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê-nin.
Người thấy “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng” và khẳng định: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta! Đây là con đường giải phóng cho chúng ta.” Suốt những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc kiên trì, bền bỉ, xây dựng và truyền bá “lý luận giải phóng dân tộc,” đồng thời tích cực chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Vượt lên những khuôn mẫu giáo điều, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh khoa học, Nguyễn Ái Quốc hoạch định một học thuyết độc đáo về cách mạng ở thuộc địa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở các nước thuộc địa “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”.
Xuất phát từ mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược và tay sai, khẳng định “dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp”, học thuyết “Dân tộc cách mệnh” của Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Lực lượng của “dân tộc cách mệnh” bao gồm toàn dân tộc, trong đó công nhân và nông dân là “chủ cách mệnh”, “gốc cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của công nông.”
Là ngọn cờ hướng đạo phong trào dân tộc Việt Nam trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, học thuyết “Dân tộc cách mệnh” của Hồ Chí Minh trở thành vũ khí tư tưởng cho mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, giữ vị trí quyết định trong việc chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng và đặt nền móng để xây dựng nên cương lĩnh chính trị của Đảng sau này.
Cùng với sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị, Nguyễn Ái Quốc còn tích cực chuẩn bị điều kiện về tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Cuối năm 1924, Người rời Liên Xô, về Quảng Châu (Trung Quốc), tiếp xúc với những thanh niên yêu nước Việt Nam trong Tâm tâm xã và nhận thấy họ không hiểu gì về lý luận, lại càng không biết việc tổ chức. Người chọn một số thanh niên tiên tiến, lập ra nhóm Cộng sản đoàn (tháng 2/1925) làm hạt nhân để sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 6/1925).
Đến năm 1929, phong trào đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự lãnh đạo của một đảng Cộng sản.
Yêu cầu đó tác động vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng Đảng, dẫn tới cuộc đấu tranh nội bộ và sự chuyển hóa tích cực trong những tổ chức này, hình thành nên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương cộng sản Đảng (6/1929), An Nam cộng sản Đảng (8/1929) và Đông Dương cộng sản Liên đoàn (9/1929).
Điều đó chứng tỏ học thuyết “Dân tộc cách mệnh” của Hồ Chí Minh đã thấm sâu trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam và xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong một quốc gia dân tộc lại có tới ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ với nhau, làm cho lực lượng và sức mạnh của cách mạng bị phân tán. Đó là điều không phù hợp với lợi ích của phong trào cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản. Phải chấm dứt tình trạng biệt phái giữa các tổ chức cộng sản và thống nhất thành một đảng là yêu cầu cấp thiết.
Hợp nhất các tổ chức đảng, thành lập chính đảng duy nhất
Ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi cho những người cộng sản Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, nêu rõ “nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản ở Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương.”
Tuy nhiên, vào thời gian cuối năm 1929, chưa có một người cộng sản nào ở Đông Dương tiếp cận được tài liệu này.
Tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan). Khi biết tin sự chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản ở trong nước, Người lập tức rời Xiêm đi Trung Quốc và tới đó vào ngày 23/12/1929.
Lấy tư cách là phái viên Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Người triệu tập đại biểu của 2 nhóm: Đông Dương cộng sản Đảng và An nam cộng sản Đảng họp Hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hong Kong, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp ngày 6/1/1930.
Sau khi nghe Nguyễn Ái Quốc nói về những sai lầm của sự chia rẽ và nhiệm vụ phải thành lập đảng cộng sản, các đại biểu đều đồng ý thống nhất hợp nhất, hai tổ chức thành một đảng, lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
Không chỉ có vai trò quyết định trong việc thống nhất tổ chức, Nguyễn Ái Quốc còn là người soạn thảo Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đầu tiên của Đảng. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc và tay sai được nhấn mạnh trên cả hai phương diện: chính trị và kinh tế.
Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công-nông-binh và tổ chức ra quân đội công nông.
Về kinh tế, tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công-nông-binh quản lý; tịch thu hết ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo...
Trong khi chủ trương tịch thu ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù dân tộc, Cương lĩnh đặt vấn đề “chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến.” Cương lĩnh chủ trương tập hợp lực lượng toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Kết hợp lý luận Mác - Lê-nin về đảng cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và truyền bá một học thuyết về cách mạng giải phóng dân tộc trong nhân dân Việt Nam; giải quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức để sáng lập một đảng cách mạng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.
Ngay từ ngày mới thành lập, “Đảng ta liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như Mặt Trời mới mọc xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong.”
Mùa Xuân 1930 - mùa Xuân dựng Đảng, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng, giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng./.