Đổi mới đào tạo nhân lực y tế theo hướng hội nhập quốc tế để hướng tới mục tiêu người dân được hưởng một nền y tế tiên tiến với đội ngũ cán bộ y tế có chất lượng, đảm bảo hội nhập quốc tế là một trong những nội dung quan trọng được sửa đổi trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học sẽ trình Quốc hội ngày 6/11.
Góp ý vào nội dung này, Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, thành viên Tổ tư vấn đổi mới của Bộ Y tế đã đề xuất những nội dung cần sửa đổi và quy định trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Tiếp tục điều chỉnh các quy định về đào tạo nhân lực y tế
Theo ông Nguyễn Minh Lợi, trong quá trình soạn thảo, cơ quan soạn thảo cũng như cơ quan liên quan đã dành nhiều thời gian lấy ý kiến các bên liên quan, tiếp thu, chỉnh sửa, bổ sung nên đã có nhiều điểm mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
Lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ đều thống nhất tinh thần là cần điều chỉnh các quy định về đào tạo nhân lực y tế nằm trong tổng thể chung nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố về tính "đặc biệt" như nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định mà mới đây nhất là Nghị quyết số 20 của Hội nghị Ban Chấp hành trung ương 6 (khóa XII) với mục tiêu người dân được hưởng một nền y tế tiên tiến với đội ngũ cán bộ y tế có chất lượng, đảm bảo hội nhập quốc tế.
Việc sửa đổi này có ý nghĩa rất lớn bởi đây là cơ hội lịch sử vì nếu không chúng ta sẽ làm chậm sự phát triển và hội nhập quốc tế thêm ít nhất là 10 năm nữa. Tuy nhiên, qua các cuộc thảo luận và nghiên cứu dự thảo, tôi nhận thấy còn một số vấn đề liên quan đến đào tạo nhân lực y tế Ban soạn thảo chưa thể hiện được tính nhất quán, đồng bộ trong đó có nội dung rất quan trọng của Luật là về trình độ và văn bằng giáo dục đại học.
[Hệ thống y tế: Nguy cơ có những thế hệ không đạt yêu cầu]
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, để trở thành người bác sỹ hành nghề chuyên môn, sau khi hoàn thành chương trình đào tạo 6 năm ở trường đại học, người học còn phải đào tạo chuyên khoa, chuyên sâu và thường xuyên đào tạo cập nhật, phát triển nghề nghiệp. Nhưng trong thời gian sáu năm học tập để trở thành bác sỹ, không giống như các chương trình cử nhân khác, chương trình đào tạo bác sỹ bao gồm các hợp phần, nội dung thực hành và các giai đoạn trải nghiệm công việc trực tiếp tại các cơ sở y tế dựa trên các nền tảng lý thuyết.
Y học là nhân học nên nội dung chương trình phức tạp hơn nhiều, thời gian dài hơn so với các chương trình cử nhân bốn năm, và thường có định hướng chuyên nghiệp và chuyên môn sâu hơn so với các chương trình cử nhân của các ngành khác.
Chương trình đào tạo và năng lực của chuyên khoa và chuyên khoa sâu (ở Việt Nam hiện nay là đào tạo chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và Nội trú) cũng khác hẳn chương trình và năng lực đầu ra của thạc sỹ, tiến sỹ.
Theo hệ thống trình độ đào tạo và văn bằng của nhiều nước trên thế giới, thường theo hai định hướng đào tạo là hướng hàn lâm (academic) và hướng chuyên nghiệp (professional). “Trong đó, đào tạo bác sỹ đi theo hướng chuyên nghiệp nhưng trình độ đào tạo và văn bằng giáo dục đại học (bác sỹ, dược sỹ chuyên khoa sâu gồm chuyên khoa 1, chuyên khoa 2) và những đối tượng này không thể hòa cùng với trình độ và văn bằng cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ. Tuy nhiên, rất tiếc là điều này chưa được thể hiện trong Dự thảo Luật, chính vì vậy cần thiết phải quy định về loại hình trình độ và văn bằng này trong dự thảo Luật,” ông Lợi nhấn mạnh.
Chưa có quy định về trình độ và văn bằng chuyên sâu trong lĩnh vực y tế
Ông Nguyễn Minh Lợi cho biết việc quy định về trình độ và văn bằng chuyên sâu đã được quy định tại Điều 39 Luật Giáo dục năm 1998 và hướng dẫn cụ thể trong Điều 11 Nghị định 43/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục 1998. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, Luật giáo dục hiện hành của Việt Nam chỉ giữ về văn bằng (bác sỹ, dược sỹ, kỹ sư) mà bỏ mất trình độ và văn bằng chuyên sâu (trong y tế có chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và nội trú). Và dự thảo lần này cũng không nói rõ về nội dung này.
Điển hình là tại Khoản 1, Điều 6 đã ghi: "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại Luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sỹ và trình độ tiến sỹ."
Tại Điều 73 giao cho Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền: "quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh, thời gian đào tạo, chương trình đào tạo, điều kiện tổ chức đào tạo, quản lý đào tạo, trình độ tương đương, văn bằng, chứng chỉ phù hợp với lĩnh vực sức khoẻ và một số lĩnh vực chuyên sâu đặc thù.”
Ban soạn thảo đã quy định các trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ trong Luật và giao Chính phủ quy định trình độ tương đương. Câu hỏi đặt ra là các chương trình đào tạo bác sỹ, chuyên khoa, chuyên khoa sâu sau đào tạo bác sỹ sẽ được so sánh tương đương với chương trình đào tạo của trình độ nào? Trong khi trên thực tế, các chương trình đào tạo này không thể tương đương với chương trình cử nhân, thạc sỹ hay tiến sỹ vì đây là theo định hướng đào tạo chuyên sâu.
“Vì vậy, cần ghi rõ trong Điều 6 là "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại Luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sỹ, trình độ tiến sỹ, trình độ chuyên gia," Điều 38 là "Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng cử nhân, bằng thạc sỹ, bằng tiến sỹ, bằng chuyên gia" và quy định tại Điều 73 là "... trình độ, văn bằng, chứng chỉ đào tạo chuyên gia phù hợp...," ông Lợi khẳng định.
Như vậy, để đảm bảo thực tiễn và hội nhập, ông Lợi đề nghị sửa đổi các điều theo hướng: Tại Khoản 1, Điều 6: “1. Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sỹ, trình độ tiến sỹ, trình độ chuyên gia. Chính phủ quy định trình độ chuyên gia đối với một số ngành đào tạo theo định hướng chuyên sâu đặc thù.”
Tại Khoản 1, Điều 38: “1. Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm: bằng cử nhân, bằng thạc sỹ, bằng tiến sỹ, bằng chuyên gia. Chính phủ quy định văn bằng chuyên gia đối với một số ngành đào tạo theo định hướng nghề nghiệp chuyên sâu.”
Tại Điều 73 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, đề nghị bổ sung từ "chuẩn" vào trước cụm từ "chương trình đào tạo" và xác định rõ vai trò của Chính phủ, đề nghị sửa lại là:
"1. Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật;
2. Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh, thời gian đào tạo, chuẩn chương trình đào tạo, điều kiện tổ chức đào tạo, quản lý đào tạo, trình độ tương đương, văn bằng, chứng chỉ phù hợp với lĩnh vực sức khoẻ và một số lĩnh vực chuyên sâu đặc thù.”
Các quy định cần phù hợp với nguyên lý giáo dục và yêu cầu chuyên môn của ngành y tế
Theo ông Lợi, trong dự thảo Luật có tới 10 cụm từ "cơ quan có thẩm quyền," vì vậy, cần làm rõ đó là cơ quan hay những cơ quan nào? Luật cũng cần có những quy định về vai trò của các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt là ngành y tế vì quá trình học tập là gắn liền với các cơ sở y tế, đòi hỏi phải tuôn thủ các quy định chuyên môn theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm, Luật Dược...
Các quy định về chuẩn chương trình, kiểm định chất lượng, tổ chức đào tạo, giảng viên phải vừa phù hợp với nguyên lý giáo dục vừa phù hợp với yêu cầu chuyên môn để không ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế. Nếu chúng ta không quy định rõ, sinh viên sẽ chỉ được học chay, không gắn trách nhiệm của các cơ sở y tế với việc tham gia đào tạo (vì đó không phải là nhiệm vụ chính của họ). Do đó, cần làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước ở các Điều 33, 49, 54, 65, 68, 69.
Tại Điều 32 quy định về tự chủ trong đó có mở ngành nhưng Điều 33 quy định đối với mở ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định như vậy có thể hiểu các trường chuyên ngành về y tế sẽ không được tự chủ mở ngành đào tạo? (nghĩa là không được tự chủ về học thuật). Như vậy thì có được tự chủ xác định mức thu học phí như quy định điểm a, Khoản 2, Điều 65 hay không?
Mặt khác, việc tự chủ là một xu hướng tất yếu nhưng trong lĩnh vực y tế, tự chủ chỉ thực hiện ở lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh còn lĩnh vực y tế cơ sở và y tế dự phòng thì nhà nước vẫn phải có cơ chế đảm bảo. Chính vì vậy, cần có quy định về chính sách cho những cơ sở đào tạo các chuyên ngành về lĩnh vực y tế dự phòng, pháp y, tâm thần, lao, phong ... Chính vì vậy, cần có quy định về cơ chế quản lý nếu các cơ sở giáo dục đại học trong lĩnh vực y tế không thể tự chủ nhưng vẫn phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị do nhà nước giao.
Tại Khoản 3, Điều 49 giao "Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chuẩn chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học ..." là chưa thể hiện vai trò các cơ quan chuyên môn trong việc xây dựng chuẩn, chưa thống nhất với quy định tại Khoản 3, Điều 68.
Khoản 3, Điều 54, dự thảo đang quy định tiêu chuẩn giảng viên đại học tối thiểu là thạc sỹ, tiến sỹ. Như vậy, trong các bệnh viện chủ yếu là những người có bằng chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 hay nội trú có trình độ chuyên môn tay nghề rất giỏi và đang tham gia giảng dạy thì công nhận họ thế nào?
Đào tạo nhân lực y tế là vấn đề liên ngành quy định về đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì theo Luật Giáo dục đại học; quy định về hoạt động chuyên môn y tế do Bộ Y tế chủ trì theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh và các luật chuyên ngành; quy định về tài chính (chi phí cho đào tạo, thù lao cho giảng viên và người học tại bệnh viện, ...) do Bộ Tài chính chủ trì theo Luật về giá, Luật về phí...; quy định về vị trí việc làm của giảng viên và người học trong cơ sở y tế khi thực hiện dạy-học, chế độ đãi ngộ do Bộ Nội vụ chủ trì... Chính vì vậy, cần được thể chế hóa một cách cụ thể, rõ ràng, hướng tới mục tiêu cuối cùng là người dân được hưởng nền y tế có đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, có chất lượng./.