Tuần qua (ngày 7/9 đến 12/9), giá lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng ổn định ở mức cao. Giá tiêu cũng tương đương so với tuần trước, tuy nhiên giá càphê giảm nhẹ.
Thị trường nông sản trong nước
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang, giá lúa tươi thường tại tỉnh dao động từ 5.900-6.100 đồng/kg, tương đương tuần trước; các loại lúa chất lượng ổn định, cụ thể Jasmine từ 6.200-6.300 đồng/kg, lúa OM từ 5.950-6.300 đồng/kg.
Vụ lúa Hè Thu năm nay, nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất trong điều kiện thuận lợi bởi giá ở mức cao, đảm bảo có lãi khá. Lúa gạo được giá và hút hàng, trong khi mùa lũ năm 2020 dự báo ở mức thấp, đây là cơ hội tốt để nông dân gia tăng sản xuất lúa Thu Đông.
Theo ông Lê Văn Tuấn, chủ một doanh nghiệp xay xát lương thực ở xã Bình Phú, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, lúa giống VD 20 có giá khoảng 8.400 đồng/kg, tùy theo địa bàn, cao nhất từ trước đến nay, tăng hơn 2.000 đồng/kg so với vụ Đông Xuân vừa qua.
Tương tự, các giống lúa OM 5451, Jamine 85 cũng có giá từ 6.000-6.200 đồng/kg, cao hơn khoảng 1.000 đồng/kg so với vụ Đông Xuân vừa qua.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tiền Giang, vụ Hè Thu 2020, các huyện nằm trong vùng dự án ngọt hóa Gò Công gồm Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công, Chợ Gạo gieo sạ 23.300 ha.
Các địa phương áp dụng đồng bộ biện pháp thâm canh, phấn đấu đạt năng suất bình quân từ 51-55 tạ/ha và sản lượng cả vụ khoảng 123.000 tấn lúa hàng hóa.
[Thị trường nông sản tuần qua: Lúa gạo, càphê tiếp tục đà tăng giá]
Tại Sóc Trăng, giá lúa tiêu thụ trong những tháng gần đây luôn ổn định ở mức cao. Giá lúa thường vụ Hè Thu đang thu hoạch được bán ở mức trung bình từ 5.000-5.900 đồng/kg, lúa thơm nhẹ giá từ 5.700-6.000 đồng/kg, lúa đặc sản từ 6.000-6.500 đồng/kg. Giá lúa đặc sản ST24, ST25 (cho gạo ngon nhất thế giới) tùy từng thời điểm, giá từ 7.000 đến 8.000 đồng/kg.
Giá lúa bình quân từ đầu năm đến nay tại Sóc Trăng luôn cao hơn so với cùng kỳ năm 2019 từ 400 đồng đến 1.100 đồng/kg. Nhờ vậy, nhà nông có mức lợi nhuận cao, trung bình từ 20-25 triệu đồng/ha. Những hộ trồng lúa đặc sản ST24, ST25 lợi nhuận cao từ 30-35 triệu đồng/ha.
Do nguồn cung trong nước thấp đã đẩy giá gạo 5% tấm lên 490-495 USD/tấn trong phiên ngày 10/9 so với mức 490 USD/tấn trong tuần trước.
Một nhà giao dịch tại tỉnh Tiền Giang cho hay nguồn cung trong nước hiện đang rất thấp, trong khi một số doanh nghiệp xuất khẩu cố gắng hoàn thành nốt những hợp đồng đã ký trước đó với các khách hàng từ Malaysia, Timor-Leste và châu Phi.
Các nhà giao dịch hy vọng giá gạo sẽ giảm trong những tuần tới, trước lúc thu hoạch vụ Thu Đông.
Về càphê, theo Diễn đàn của người làm càphê, do giá càphê ở các sàn trên thị trường thế giới có phiên tăng giảm tương đối ngang nhau nhờ nguồn cung ổn định. Theo đà phục hồi của càphê thế giới, ngày 12/9 giá càphê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên tăng thêm 100-200 đồng so với ngày 11/9, lên dao động trong khung 33.200-33.700 đồng/kg.
Tuy nhiên, do đầu tuần giá càphê trong nước có sự đi xuống nên tính chung tuần qua, giá càphê nhân xô tại thị trường Tây Nguyên giảm 200-300 đồng, xuống dao động trong khung 33.100-33.700 đồng/kg.
Tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh, giá càphê Robusta xuất khẩu loại 2,5% đen vỡ, đứng ở 1.533 USD/tấn, với mức chênh lệch cộng 90-100 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 1/2021 tại London.
Về tiêu, theo Tin Tây Nguyên, giá tiêu tại khu vực trọng điểm Tây Nguyên giao dịch ở quanh mức 47.000-50.000 đồng/kg, tương đương với tuần trước. Ngưỡng cao nhất tại Bà Rịa-Vũng Tàu đã chạm mức 50.000 đồng/kg. Đồng Nai chốt mức thấp nhất là 47.500 đồng/kg.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, 8 tháng năm 2020, xuất khẩu hồ tiêu đạt 203 nghìn tấn với 445 triệu USD, giảm 7,4% về khối lượng và giảm 20% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Theo dự báo của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, sản lượng hồ tiêu đạt khoảng 240.000 tấn, giảm 15% so với năm 2019. Điều này gây thêm khó khăn cho các nhà xuất khẩu tiêu. Theo đó, mục tiêu xuất khẩu 280.000 tấn tiêu, với trị giá đạt 800 triệu USD cũng được dự báo còn nhiều khó khăn.
Thị trường nông sản thế giới
Trên thị trường nông sản Mỹ: kết thúc phiên giao dịch 12/9, giá các loại nông sản giao kỳ hạn trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT), Mỹ, diễn biến trái chiều, trong đó giá ngô và đậu tương tăng, trong khi giá lúa mỳ giảm.
Cụ thể, giá ngô giao tháng 12/2020 khép phiên 12/9 tăng 3,5 xu Mỹ (0,96%) lên 3,685 USD/bushel và giá đậu tương giao tháng 11/2020 tăng 18,5 xu Mỹ (1,89%) lên 9,96 USD/bushel.
Ở chiều ngược lại, giá lúa mỳ giao tháng 12/2020 chốt phiên với mức giảm 6,25 xu Mỹ (1,14%) xuống 5,42 USD/bushel. (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Công ty nghiên cứu AgResource Research có trụ sở tại Chicago cho hay bão Derecho ở bang Iowa và hạn hán ở khu vực Midwest Mỹ đã làm tổng sản lượng ngô của nước này giảm 253 triệu bushel và đậu tương giảm 150 triệu bushel.
Trong khi đó, dự trữ cuối vụ chính trên thế giới đã giảm 9,9 triệu tấn xuống còn 719,8 triệu tấn. Dự trữ ngô thế giới trong niên vụ 2020/2021 được dự báo sẽ tăng 6 triệu tấn so với niên vụ trước, ngay cả khi lượng ngô bán ra trên thế giới tăng lên 186 triệu tấn.
Dự trữ đậu tương cuối niên vụ 2020/21 của Mỹ đã giảm khoảng 150 triệu bushel xuống 460 triệu bushel, với giả định khoảng 2.125 triệu bushel được xuất khẩu. Trung Quốc đã mua gần 17 triệu tấn đậu tương Mỹ trong niên vụ 2019/2020.
Giả sử nhu cầu ngoài Trung Quốc không thay đổi, có khả năng nước này sẽ mua khoảng 28-29 triệu tấn đậu tương từ Mỹ trong niên vụ 2020/2021. Các nhà phân tích ước tính rằng Trung Quốc hiện đã đặt hàng từ 22-23 triệu tấn đậu tương của Mỹ.
Còn dự trữ lúa mỳ Mỹ cuối niên vụ 2020/21 không đổi ở mức 925 triệu bushel, với 975 triệu bushel dành để xuất khẩu. Lượng lúa mỳ nhập khẩu trong niên vụ 2021/21 của Trung Quốc đã tăng 1 triệu tấn lên 7 triệu tấn.
Về thị trường gạo châu Á: giá gạo xuất khẩu trong tuần này tại Ấn Độ đã tăng lên mức cao nhất của gần 18 tháng do nguồn cung vẫn hạn chế bởi tình hình gián đoạn do đại dịch COVID-19 gây ra. Trong khi đó, Bangladesh có thể phải nhập khẩu mặt hàng thiết yếu này sau khi thiên tai tàn phá mùa màng.
Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ đã tăng lên 387-394 USD/tấn so với mức 384-390 USD/tấn trong tuần trước đó.
Các nhà xuất khẩu Ấn Độ đang phải vật lộn với tình trạng lượng container hiện có hạn chế và khan hiếm công nhân tại cảng xử lý gạo lớn nước Kakinada trong bối cảnh nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới này hiện chỉ đứng sau Mỹ về số ca mắc COVID-19.
Tại nước láng giềng Bangladesh, giá gạo trong nước đã tăng tới 20% trong một tháng do lo ngại thiếu hụt nguồn cung.
Theo các quan chức Bộ nông nghiệp Bangladesh, lượng mưa quá lớn từ tháng 3-4/2020, bão Amphan trong tháng 5/2020 và ba đợt lũ lụt hồi tháng 6-7/2020 đã làm hư hại hầu hết các loại cây trồng, trong đó 70% là lúa. Do đó, Bangladesh cần bắt đầu nhập khẩu gạo ngay lập tức.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm xuống 487-510 USD/tấn trong ngày 10/9 so với mức 500-513 USD/tấn trong tuần trước do nhu cầu giảm.
Về thị trường càphê, giá càphê thế giới khép phiên giao dịch cuối tuần 11/9 ở mức cao, gần mức cao nhất của 8 tháng rưỡi ghi nhận được trong ngày 4/9.
Cụ thể, giá càphê Robusta giao tháng 11/2020 trên sàn ICE Europe-London tăng thêm 10 USD lên 1.433 USD/tấn. Còn giá càphê Arabica giao tháng 12/2020 trên sàn ICE US -New York- tăng 0,75 xu Mỹ lên 132,45 xu Mỹ/pound.
Tình trạng khô hạn quá mức tại Brazil, được dự báo sẽ làm giảm năng suất càphê, đã hỗ trợ giá mặt hàng này. Theo công ty công nghệ vũ trụ Maxar Technologies của Mỹ, thời tiết khô hạn trong 10 ngày tới ở khu vực Đông bắc Minas Gerais sẽ không thuận lợi cho việc ra hoa của cây càphê. Khu vực này có lượng mưa thấp hơn 10% so với lượng mưa bình thường trong tháng qua.
Ngoài ra, Trung tâm Dự báo Khí hậu Mỹ hôm 10/9 cho biết hiện tượng thời tiết La Nina đã xuất hiện ở khu vực Thái Bình Dương, có thể dẫn đến lượng mưa dưới mức trung bình ở Brazil trong quý IV năm 2020.
Giá càphê đang dần ổn định sau khi có xu hướng tăng cao hơn trong bốn tuần qua lên mức cao nhất của 8 tháng rưỡi hôm 4/9 do dự trữ càphê giảm dần. Lượng càphê Arabica dự trữ do ICE giám sát đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 năm rưỡi qua là 1,133 triệu bao (1 bao=60kg) trong ngày 10/9.
Trong khi dự trữ càphê Robusta đã giảm xuống mức thấp nhất trong 20 tháng là 10.908 lot (1 lot=khoảng 17 tấn) trong ngày 28/8.
càphê Arabica đã nhận được sự hỗ trợ do nguồn cung từ Colombia, nhà sản xuất càphê Arabica lớn thứ hai thế giới, giảm sau khi số liệu từ Liên đoàn các nhà trồng càphê Colombia cho thấy xuất khẩu càphê Colombia trong tháng 8/2020 đã giảm 8% xuống 1,118 triệu bao (1 bao=60kg).
Thêm vào đó, Tổ chức càphê Quốc tế (ICO) ngày 8/9 công bố số liệu cho thấy xuất khẩu càphê niên vụ 2019/2020 trên thế giới đã giảm 5,3% so với niên vụ trước xuống 106,58 triệu bao./.