Theo báo cáo mới nhất của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về thực hiện chính sách hỗ trợ người dân khó khăn do đại dịch COVID-19, tính đến ngày 29/6, các địa phương đã phê duyệt danh sách 15,8 triệu người thuộc các nhóm đối tượng được thụ hưởng với tổng kinh phí là 17.500 tỷ đồng.
Như vậy, gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng theo Nghị quyết 42/NQ-CP và Quyết định 15/QĐ-CP của Chính phủ mới chỉ giải ngân được 17.500 tỷ đồng, bằng gần 30% so với dự tính ban đầu.
Doanh nghiệp chưa được vay vốn trả lương
Trong khi việc hỗ trợ cho các đối tượng là người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo các địa hương đã gần như hoàn thành thì việc hỗ trợ cho các nhóm đối tượng khác vẫn còn rất hạn chế. Tổng kinh phí hỗ trợ mới chỉ đạt gần 30% so với dự tính ban đầu là 62.000 tỷ đồng.
Đại diện Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội nhận định trong quá trình thực hiện chính sách, các địa phương đã bám sát vào mục tiêu, nguyên tắc của Nghị quyết 42/NQ-CP là hỗ trợ cho các đối tượng bị giảm sâu thu nhập, mất việc, thiếu việc làm, gặp khó khăn, không đảm bảo mức sống tối thiểu, chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19. Tuy nhiên, số lượng đối tượng thụ hưởng của chính sách hỗ trợ là người lao động còn ít so với dự kiến ban đầu.
Người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương tại doanh nghiệp 15.909 người, chỉ đạt 1,59% so với dự kiến ban đầu là 1 triệu người.
Đối với hộ kinh doanh hộ kinh doanh cá thể có doanh thu khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm, số lượng hộ kinh doanh do Ủy ban Nhân dân cấp xã gửi Chi cục Thuế đề nghị thẩm định là 30.964 hộ, dạt 4,07% so với dự kiến ban đầu là 760.000 hộ.
Đặc biệt, theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội và trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia, tới thời điểm này chưa có hồ sơ nào của người sử dụng lao động vay Ngân hàng Chính sách xã hội để trả lương cho người lao động bị ngừng việc được giải ngân. Trong khi đó, dự kiến số tiền cho vay ban đầu là 16.000 tỷ đồng với tổng số lao động được hô trợ 3 triệu lao động.
Tại sao hỗ trợ ít hơn dự kiến?
Lý giải nguyên nhân của việc số lượng các đối tượng thụ hưởng chính sách còn thấp so với dự kiến ban đầu, đại diện Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết thời điểm các cơ quan chức năng nghiên cứu, xây dựng các chính sách hỗ trợ, tình hình dịch COVID-19 đang diễn ra phức tạp, chưa được kiểm soát tại Việt Nam nên dự báo số đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh tương đối nhiều.
Tuy nhiên, trong diễn biến thực tế, Việt Nam đã sớm kiểm soát được dịch bệnh vào cuối tháng 5/2020, tạo điều kiện cho việc mở cửa lại nền kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp quay trở lại phát triển sản xuất, kinh doanh. Do vậy, số lượng lao động mất việc làm, ngưng việc tiếp cận gói hỗ trợ này còn khá ít.
Ngoài ra, người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương không được hỗ trợ là do nhiều lao động làm việc tại các đơn vị sự nghiệp, cơ sở giáo dục, giáo dục nghề nghiệp công lập và ngoài công lập, hợp tác xã, tổ chức không phải là doanh nghiệp không thuộc đối tượng áp dụng Nghị quyết số 42/NQ-CP, Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg.
[Gói 62.000 tỷ đồng: Bộ trưởng đề nghị mở rộng đối tượng thụ hưởng]
Đối với hộ kinh doanh cá thể, một phần do các hộ tạm dừng kinh doanh trong khoảng thời gian ngắn, các cấp chính quyền địa phương còn xét duyệt tương đối chặt chẽ. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 3 Quyết định 15/2020/QĐ-TTg quy định điều kiện hỗ trợ hộ kinh doanh là phải tạm ngừng kinh doanh từ 1/4/2020 theo Quyết định của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh triển khai thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ nên diện đối tượng hộ kinh doanh thuộc diện đối tượng thụ hưởng còn hạn chế.
Theo đại diện Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, trong thực tế một số doanh nghiệp còn vốn duy trì hoạt động nên vẫn bố trí đảo ca, giãn ca, làm việc bán thời gian nhằm giữ chân người lao động. Ngoài ra, doanh nghiệp vẫn bố trí kinh phí và thỏa thuận trả lương giãn việc, ngừng việc cho người lao động nên chưa có nhu cầu vay vốn để trả lương ngừng việc cho người lao động.
Mặt khác, doanh nghiệp khi lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ phải chứng minh tài chính nên khiến cho doanh nghiệp e ngại ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh, không chủ động trong việc lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ cho người lao động. Doanh nghiệp không chứng minh về việc không có doanh thu hoặc nguồn tài chính để trả lương vì trên thực tế mặc dù doanh nghiệp gặp khó khăn về đơn hàng hoặc nguyên vật liệu nhưng vẫn duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh với một bộ phận lao động rất ít so với trước khi có dịch.
Trên cơ sở phản ánh của nhiều địa phương, cơ quan doanh nghiệp, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số chính sách hỗ trợ cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp và người lao động được tiếp cận chính sách, đồng thời cần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quá trình xác lập hồ sơ đề nghị của các đối tượng thụ hưởng./.