Đảng, Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển; lấy người dân làm trung tâm, lấy hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Xây dựng nền hành chính phục vụ
Trong hoạt động công vụ, Việt Nam luôn xác định cải cách hành chính là một trong những đột phá phát triển đất nước.
Cải cách hành chính được thực hiện gắn với nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động sáng tạo; đổi mới lề lối làm việc, phương thức quản trị hiện đại, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; tận dụng có hiệu quả thành tựu, tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với lộ trình, bước đi phù hợp.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 đã được các cấp, các ngành nỗ lực triển khai với mục tiêu xuyên suốt là xây dựng nền hành chính nhà nước pháp quyền, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả; tập trung vào cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, công chức công vụ, thủ tục hành chính, tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính.
[Vì sao chỉ số cải cách hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh tụt hạng?]
Trong số đó, hiện đại hóa nền hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tiến trình hội nhập quốc tế.
Trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chính phủ đã xác định đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, tiến tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số một cách phù hợp, thực chất và hiệu quả.
Nhiệm vụ hiện đại hóa nền hành chính được xác định trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 là xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số với mục tiêu tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ thúc đẩy hoàn thành xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
Điều này sẽ góp phần đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp có đủ năng lực vận hành nền kinh tế số, xã hội số đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, tổ chức.
Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ xác định các nhiệm vụ trọng tâm cần tổ chức thực hiện đến năm 2030, gồm hoàn thiện môi trường pháp lý; phát triển hạ tầng số quốc gia; phát triển nền tảng và hệ thống số quy mô quốc gia; phát triển dữ liệu số quốc gia; phát triển ứng dụng, dịch vụ nội bộ; phát triển ứng dụng, dịch vụ phục vụ người dân, doanh nghiệp; xây dựng, phát triển đô thị thông minh.
Bộ Nội vụ cho biết hiện đại hóa nền hành chính đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Chính phủ đã từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước trên nhiều lĩnh vực, bao gồm các chương trình, định hướng của quốc gia; cung cấp thông tin, dịch vụ công; chuyển đổi số và đô thị thông minh.
Chính phủ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; xây dựng Chính phủ điện tử; quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước; cung cấp thông tin dịch vụ công trực tuyến trên Trang thông tin điện tử hoặc Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
Để đổi mới công tác chỉ đạo điều hành về xây dựng Chính phủ điện tử, Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử đã được thành lập và Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, nhằm thực hiện “mục tiêu kép” vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực toàn cầu.
Hiện có 19/22 bộ, cơ quan ngang bộ; 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử và đang tổ chức triển khai, thực hiện một cách hiệu quả.
Theo đánh giá của Bộ Nội vụ, tỷ lệ cơ quan nhà nước đã kết nối với mạng diện rộng (WAN) hiện đạt trung bình 95%; tỷ lệ bộ, ngành, địa phương có trung tâm dữ liệu đạt 86,3% ở các bộ, cơ quan ngang bộ, 66,6% ở các cơ quan thuộc Chính phủ và 94% ở các địa phương.
Tỷ lệ cơ quan nhà nước đã triển khai mô hình điện toán đám mây đạt 72,7% ở các bộ, cơ quan ngang bộ, 83,3% ở các cơ quan thuộc Chính phủ và 63,5% ở các địa phương.
Hiện đại hóa nền công vụ
Các bộ, ngành đã tích cực xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần hình thành nên cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết thủ tục hành chính của người dân, tổ chức, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Điển hình là Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký doanh nghiệp, tài chính; bảo hiểm (thu thập thông tin cá nhân của khoảng 93 triệu người); dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; dữ liệu giáo dục; dữ liệu danh mục dùng chung của Bộ Y tế,...
Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đã được xây dựng, từng bước kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương được thúc đẩy mạnh mẽ với việc thiết lập, đưa vào sử dụng nhiều ứng dụng quan trọng, góp phần tích cực trong hiện đại hóa nền hành chính quốc gia.
Nổi bật trong số này phải kể đến Cổng dịch vụ công quốc gia, kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh; Trục liên thông văn bản quốc gia, kết nối liên thông để phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử giữa 95/95 cơ quan nhà nước bộ, ngành, địa phương và kết nối với các cơ quan liên quan trong hoạt động công vụ.
Bên cạnh đó, Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (E-Cabinet) góp phần đổi mới phương thức làm việc của Chính phủ trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, hướng tới Chính phủ không giấy tờ, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ. Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia; Trung tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Hiện nhiều cơ quan, địa phương đã xây dựng Trung tâm điều hành tích hợp, chia sẻ các cơ sở dữ liệu, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các tỉnh Phú Thọ, Kon Tum, Trà Vinh.
Việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp được đẩy mạnh.
Đến nay, tỷ lệ trao đổi văn bản điện tử trong cơ quan nhà nước đạt trên 95%; tỷ lệ sẵn sàng họp trực tuyến đến cấp xã tăng từ 40% lên 100%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến đủ điều kiện cung cấp mức độ 4 tăng từ 31% lên 96%.
Có thể thấy Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã triển khai có hiệu quả Nghị quyết phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025.
Các nền tảng Chính phủ điện tử được tập trung phát triển, tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia gắn với Cổng dịch vụ công quốc gia đã tích hợp trên 2.800 dịch vụ trực tuyến của các bộ, ngành và địa phương.
Triển khai Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu đưa Việt Nam vào Top 50 về Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và hình thành các doanh nghiệp công nghệ số vươn ra toàn cầu được triển khai bài bản, kịp thời.
Đây là những thành công, kết quả có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến chỉ đạo, điều hành và kết quả của công tác cải cách hành chính, góp phần đạt được những kết quả tích cực, quan trọng vào thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa khôi phục phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của đất nước.
Tuy nhiên, Bộ Nội vụ cũng cho rằng quá trình xây dựng, hiện đại hóa nền công vụ của Việt Nam còn gặp phải khó khăn, thách thức.
Đầu tiên phải kể đến, đó là việc xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số còn chưa đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương; mô hình, giải pháp triển khai chưa đồng bộ, mức độ quan tâm chỉ đạo triển khai còn có khoảng cách nhất định giữa các bộ, ngành, địa phương.
Việc hình thành các hệ thống dữ liệu dùng chung chưa đầy đủ; việc kết nối, liên thông giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành, dữ liệu dùng chung của các cơ quan, đơn vị còn khó khăn, gây cản trở cho công tác quản lý và giải quyết công việc cho người dân, tổ chức.
Ngoài ra, các dịch vụ công trực tuyến chủ yếu mới chỉ triển khai cung cấp đến cấp độ 3; tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn hạn chế, số lượng hồ sơ trực tuyến theo từng dịch vụ còn thấp, nhiều dịch vụ không phát sinh hồ sơ trực tuyến.
Mức độ sẵn sàng cho ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động công vụ tại nhiều cơ quan, đơn vị còn chưa đồng đều; các tương tác hai chiều và giao dịch hoàn chỉnh mới bước đầu được thực hiện…
Những điều này làm giảm một phần tốc độ hiện đại hóa nền hành chính ở Việt Nam hiện nay./.