Sau 5 năm bị Ủy ban châu Âu (EC) cảnh báo “thẻ vàng” về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có nhiều nỗ lực trong việc giám sát khai thác, truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác và thủy sản nhập khẩu chế biến xuất khẩu.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục nếu muốn được gỡ bỏ "thẻ vàng" IUU và phát triển nghề cá bền vững.
Trên đây là nội dung được tập trung thảo luận tại “Hội nghị bàn giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29/9.
Nhiều tồn tại
Theo Bộ Nông và Phát triển nông thôn, ngay khi nhận cảnh báo “thẻ vàng,” Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã bắt tay ngay vào các giải pháp khắc phục.
Nhờ đó, việc quản lý đội tàu từng bước đi vào nề nếp; cụ thể: phân bổ hạn ngạch giấy phép khai thác ở vùng khơi, vùng lộng và ven bờ; quản lý tốt hạn ngạch về giấy phép khai thác.
Đến nay, tổng số tàu cá toàn quốc đã thực hiện đánh dấu đạt 96,5%.
[Tăng cường các biện pháp chống khai thác hải sản bất hợp pháp]
Việc theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá trên biển cũng có chuyển biến.
Tính đến ngày 25/9, việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) đạt 95,29%, tăng 5,03% so với trước.
Các tỉnh đã thực hiện có kết quả như Quảng Ninh, Thừa Thiên-Huế, Cà Mau, Thanh Hóa, Bình Định, Bình Thuận, Bến Tre, Sóc Trăng...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn rất nhiều tồn tại hạn chế.
Cụ thể, việc rà soát, đăng ký, cập nhật vào cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia chưa đạt yêu cầu.
Triển khai Hệ thống giám sát tàu cá để giám sát hoạt động của tàu cá trên biển, xử lý các hành vi khai thác IUU còn nhiều bất cập.
Hiện chỉ có các tỉnh như Quảng Ninh, Ninh Bình, Thừa Thiên-Huế, Cà Mau, Sóc Trăng... hoàn thành 100% việc lắp đặt thiết bị VMS.
Nhiều địa phương có tỷ lệ lắp đặt thấp hơn trung bình cả nước như Hải Phòng (89,25%), Nam Định (88,2%) Thành phố Hồ Chí Minh (87,5%), Trà Vinh (87,92%), Bạc Liêu (89,11%)...
Việc trực khai thác, sử dụng hệ thống giám sát tàu cá thiếu đồng bộ, thực hiện quy định về quản lý thiết bị VMS lắp đặt trên tàu cá chưa đảm bảo.
Tình trạng mất kết nối VMS diễn ra phổ biến, tàu cá vượt ranh giới trên biển phát hiện qua VMS nhưng kết quả điều tra, xử phạt rất ít.
Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ ra việc tổ chức kiểm tra, kiểm soát tàu cá ra vào cảng, lao động trên tàu cá, kiểm soát sản lượng khai thác, truy xuất nguồn gốc tại nhiều địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu.
Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá, đặc biệt là tại các cảng cá còn nhiều hạn chế, so với sản lượng hải sản khai thác 3,67 triệu tấn năm 2021 thì mới kiểm soát được khoảng 15-18%.
Khi các cảng không đáp ứng được công tác bốc dỡ thì rất khó để kiểm soát sản lượng và truy xuất nguồn gốc.
Đại diện Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản cũng nhận định việc truy xuất nguồn gốc hải sản tồn tại nhiều vấn đề, hồ sơ còn mang tính chất đối phó, đặc biệt là việc ghi, nộp nhật ký còn nhiều sai sót và mới đạt khoảng 45%; mới giám sát được 50% sản lượng qua cảng đối với tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên.
Hầu hết các cảng cá chưa kiểm soát được tàu cá của tỉnh khác cập cảng làm xác nhận nhưng thực hiện chứng nhận tại tỉnh khác.
Ở góc độ doanh nghiệp thu mua, chế biến hải sản xuất khẩu, bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, cho biết còn nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình làm các giấy tờ theo quy định pháp luật cho các lô hàng hải sản xuất khẩu đi EU.
Cụ thể, mất nhiều thời gian trong chờ đợi xác minh thông tin để cấp duyệt hồ sơ (như S/C, C/C...) trong khi các hồ sơ, dữ liệu ở khâu trước liên quan đến chủ tàu-thuyền trưởng hoặc cảng cá (nhật ký khai thác, giấy phép, nhật ký hành trình, biên bản bốc dỡ...) nhiều lúc có sự sai khác, sai số so với nhật ký điện tử hành trình.
Theo quy định hiện hành, các tàu cá khi được xác định là “không IUU” và chấp hành mọi quy định thì được Ban quản lý cảng cá cho phép vào cập cảng.
Doanh nghiệp chỉ thu mua từ những tàu cá được cập cảng theo quy định (an toàn, không IUU), tức là lô hàng không vi phạm IUU.
Nhưng, các vấn đề bất cập, thiếu hoặc có sự “vênh” số liệu giữa các hồ sơ (nhật ký và dữ liệu điện tử hành trình) sau đó khi làm giấy S/C hoặc C/C doanh nghiệp thu mua không thể can thiệp được nhưng nếu có vấn đề lại ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch sản xuất, xuất khẩu.
Tập trung khắc phục
Để hướng tới mục tiêu gỡ bỏ “thẻ vàng” IUU, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị các tỉnh, thành phố ven biển tập trung thực hiện việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát; gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở (xã/phường/thị trấn).
Đồng thời, Bộ yêu cầu khẩn trương rà soát, thực hiện cấp giấy phép khai thác thủy sản, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm, đăng ký, đăng kiểm, đánh dấu tàu cá.
Các địa phương hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS và khai thác, sử dụng có hiệu quả hệ thống giám sát tàu cá để quản lý hoạt động của tàu cá địa phương trên biển; thực hiện nghiêm túc, đúng quy định việc kiểm soát tàu cá ra vào cảng, giám sát sản lượng thủy sản từ khai thác, truy xuất nguồn gốc thủy sản.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh các địa phương phải nâng cao trách nhiệm của mình phối hợp cùng với Tổng cục thủy sản trong việc kiểm soát tàu cá, hoàn thành việc gắn thiết bị giám sát hành trình nhanh chóng; thực hiện nghiêm việc giám sát định vị liên tục, kể cả tàu cá nằm bờ.
Đối với các phương tiện vi phạm phải xử phạt nghiêm cả chủ tàu và thuyền trưởng để tạo tính răn đe.
Song song đó, duy trì việc tuyên truyền, tập huấn về ghi, nộp báo cáo, nhật ký khai thác đảm bảo chất lượng nội dung; tiếp tục đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ; rà soát, củng cố hồ sơ còn tồn tại, thiếu sót; ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu trên phần mềm điện tử để dễ dàng lưu trữ, quản lý.
Các địa phương lập danh sách các tàu cá có nguy cơ cao vi phạm khai thác IUU; phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương để kiểm soát tàu cá của tỉnh hoạt động ngoài tỉnh.
Rà soát, xây dựng, bổ sung các cơ chế, chính sách hỗ trợ hoạt động khai thác thủy sản tại địa phương, đảm bảo ổn định đời sống, sinh kế của ngư dân.
Xác định cấp xã/phường/thị trấn là lực lượng nòng cốt trong quản lý, giáo dục, tuyên truyền người dân về chống khai thác IUU.
Bà Nguyễn Thị Thu Sắc kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét rà soát và đơn giản hoá mẫu nhật ký khai thác để hạn chế việc có độ “vênh” dữ kiện giữa nhật ký khai thác với dữ liệu hành trình điện tử của tàu cá.
Đồng thời ưu tiên nâng cấp, kiện toàn các giải pháp công nghệ để giải quyết bài toán lớn về quản lý nghề cá hiện đại cũng như cải thiện quá trình cấp các giấy tờ liên quan (S/C, C/C), như CSDL nghề cá VNFishbase, nhật ký khai thác điện tử...
Về lâu dài, bà Nguyễn Thị Thu Sắc cho rằng Chính phủ cần đẩy mạnh các giải pháp ngoại giao, có các hướng dẫn hoặc bản đồ chi tiết đường biên giới biển để ngư dân có cơ sở thực thi quy định pháp luật được tốt hơn.
Mặt khác, ưu tiên đầu tư khơi thông cho kinh tế biển như: đầu tư hơn về cơ sở hạ tầng, thiết bị, nhân lực cho các cảng cá chỉ định và tăng số lượng các cảng cá đủ chuẩn được chỉ định; đào tạo cán bộ quản lý IUU, cán bộ chuyên môn, ban quản lý cảng cá đủ năng lực, chuyên nghiệp.
Có biện pháp hay quy định để doanh nghiệp khi đi mua nguyên liệu thì biết được nguyên liệu đó là hợp pháp hay không hợp pháp nhằm giảm thiểu rủi ro về sau, không chỉ tại thị trường EU mà còn nhiều thị trường khác trên thế giới./.