Với mức tăng trưởng GDP đạt 5,18% và lạm phát ở mức 1,38%, kinh tế Việt Nam 6 tháng qua giữ được tăng trưởng ổn định. Chặng đường cuối năm không ít chông gai, song điều quan trọng là cần tiếp tục gây dựng lòng tin đối với kinh tế Việt Nam.
Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã trao đổi với tiến sỹ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, xung quanh vấn đề này.
- Xin ông cho biết một số nét nổi bật của bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Những điểm tích cực của kinh tế Việt Nam bao gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất là về kinh tế vĩ mô, trong năm qua, lạm phát tương đối thấp, cán cân thanh toán quốc tế ổn định và thặng dư, giá trị đồng nội tệ không có biến động lớn. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại tệ Việt Nam tăng rất mạnh, từ mức tương đối thấp tăng lên mức 35 tỷ USD.
Nhóm thứ hai, liên quan đến sản xuất kinh doanh, có hai biểu hiện thể hiện sự phục hồi rõ nét. Chỉ số đo sản xuất công nghiệp chế biến (PMR), từ tháng 9/2013 đến nay, đều trên 50 điểm, thể hiện dấu hiệu tích cực. Khác với năm ngoái, thu ngân sách 6 tháng qua đã đạt được mức cao so với dự toán năm. Theo tôi, đây là những điểm rõ nét nhất phản ánh những mặt tích cực của kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm nay.
- Nửa đầu năm nay, lạm phát của Việt Nam chỉ ở mức 1,38%, thấp nhất trong vòng 13 năm trở lại đây và chỉ bằng 1/5 mục tiêu lạm phát của cả năm. Liệu đây có phải tín hiệu tốt đối với kinh tế Việt Nam không?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Lạm phát tương đối thấp là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá sự ổn định của kinh tế vĩ mô, bên cạnh một loạt chỉ số khác. Theo một nghĩa nào đó, kéo được lạm phát từ mức 20% xuống đến mức hiện nay là khoảng 5% tính theo năm cũng được coi là một thành tích của Việt Nam.
Tuy nhiên, phân tích kỹ hơn về chỉ số này, chúng ta cần phải quan tâm tới hai vấn đề. Thứ nhất, trong những điều kiện bình thường, duy trì được mức lạm phát 5-6% trong thời gian dài là một điều rất tốt. Tuy nhiên, trong điều kiện xử lý câu chuyện bất ổn và kéo nó về ổn định đòi hỏi vấn đề điều hành làm sao để kinh tế dần trở về ổn định, nhưng chi phí sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế không hạ quá nhanh.
Ý đồ của Chính phủ đó là có một sự hạ cánh mềm mại hơn, nhưng trên thực tế do có rất nhiều biến động từ năm 2011 khi bắt đầu thực hiện chương trình ổn định kinh tế dẫn đến việc hạ cánh của nền kinh tế trong chừng mực hơi cứng một chút. Nghĩa là khi chúng ta ổn định trong điều kiện bất ổn thì chúng ta phải trả giá, nhưng có lẽ nếu chúng ta làm tốt hơn thì cái giá phải trả là tốt hơn. Chính vì vậy, có người nói vui là có lẽ lạm phát xuống hơi nhanh quá.
Điều thứ hai tôi muốn đề cập tới đó là mặc dù lạm phát xuống thấp nhưng kỳ vọng lạm phát hiện nay vẫn ở mức 5-6% tính theo năm, chứ không phải là thiểu phát hay giảm phát.
- Trước tình hình khó khăn như hiện nay, Chính phủ cần phải có những đối sách gì thưa ông?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Hiện nay, chúng ta đang phải xử lý rất nhiều vấn đề để đạt được đồng thời mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng kinh tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải dành một nguồn lực không nhỏ để tiếp tục hội nhập và tái cấu trúc nền kinh tế.
Một điểm nữa đó là dư địa của chính sách, các chính sách vĩ mô của nước ta hiện chưa đủ để tạo dựng một sự phục hồi mạnh mẽ. Với chính sách tiền tệ, chúng ta đặt ra mục tiêu là tăng trưởng tín dụng năm nay sẽ ở mức 12-14%, gắn với việc phục hồi và tiếp tục ổn định, nhưng sau 6 tháng đầu năm, mức tăng trưởng tín dụng rất thấp.
Đối với chính sách tài khóa, Chính phủ đã đề nghị Quốc hội cho phép nâng bội chi ngân sách từ mức kế hoạch 4,8-5,3% cho năm nay và cả năm sau, đồng thời đề nghị phát hành thêm 170 nghìn tỷ đồng (8 tỷ USD) cho đầu tư kết cấu hạ tầng năm nay và hai năm tới. Đây là một nỗ lực rất lớn của Chính phủ.
Ngoài ra, vừa qua, chúng ta đã phải dành một khoản tiền không nhỏ để hỗ trợ ngư dân trong hoạt động kinh tế đồng thời bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Trong bối cảnh khó khăn như vậy, cùng với câu chuyện nợ công, dư địa tiếp theo cho chính sách tài khóa là không còn nhiều lắm. Hy vọng của chúng ta đó là kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục ổn định và cố gắng ở mức phục hồi nhất định, nhưng cũng không thể quá vội vã được. Quan trọng là chúng ta phải đi vào cải cách đồng bộ, mạnh mẽ và quyết liệt hơn nữa, điều này sẽ giúp lòng tin quay trở lại.
Nếu lòng tin quay trở lại sẽ khiến người dân tiêu dùng nhiều hơn, đầu tư cho sản xuất kinh doanh tạo ra giá trị gia tăng, tăng trưởng kinh tế và việc làm. Một điểm nữa đó là lòng tin của nhà nhà đầu tư, chúng ta đang cố gắng để lòng tin này quay trở lại, đây là nguồn lực rất lớn dù là nhà đầu tư trong nước hay ngoài nước.
- Thưa ông, với toàn bộ diễn biến của nền kinh tế 6 tháng đầu năm như chúng ta vừa đề cập tới, ông có dự báo như thế nào về triển vọng kinh tế trong suốt cả năm 2014?
Tiến sỹ Võ Trí Thành: Chúng ta đều biết rằng Chính phủ vừa họp và quyết định giữ nguyên các chỉ tiêu kinh tế cơ bản mà Quốc hội đã thông qua với con số tăng trưởng năm nay đạt mục tiêu là 5,8%, lạm phát dưới 7%.
Cho tới nay có thể thấy rõ mục tiêu lạm phát chúng ta hoàn toàn có thể đạt được, thậm chí lạm phát năm nay có thể kỳ vọng đạt mức 5-6%.
Đối với tăng trưởng, dự báo mới nhất của Ngân hàng thế giới trong tháng 6 này cho thấy, tăng trưởng Việt Nam sẽ ở vào khoảng 5,5%. Theo dự báo mới nhất mà Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia vừa đưa ra có tính đến các tác động có thể có ở mức độ nào đó trong quan hệ kinh tế Việt Nam-Trung Quốc thì tăng trưởng sẽ ở khoảng 5,6%.
Cá nhân tôi thì cho rằng, ngay cả khi không có yếu tố tác động từ sự kiện biển Đông, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng 5,8% là không dễ dàng do những khó khăn và hạn chế về mặt chính sách.
Mặc dù chúng ta có thể thấy rằng sự phục hồi kinh tế ở một số lĩnh vực như là công nghiệp, xuất khẩu hay là một số lĩnh vực dịch vụ, nhưng chưa đủ. Tôi cho rằng việc tăng trưởng đạt được mức nào đó không quan trọng bằng việc chúng ta cần tiếp tục gây dựng lại lòng tin đối với nền kinh tế Việt Nam.
Điều này cần dựa vào sự tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh và quyết liệt hơn tái cấu trúc nền kinh tế. Đặc biệt là phải chú trọng tới vấn đề hội nhập kinh tế. Chúng ta rất kỳ vọng rất nhiều, kỳ vọng những hiệp định lớn như TPP, FTA VN-EU, ASEAN +6… đều sẽ được ký trong năm nay và năm sau.
Tôi tin đây sẽ là một “cú hích” trong việc tạo dựng lòng tin vào nền kinh tế Việt Nam và đó mới là điều quyết định quan trọng nhất cho phát triển kinh tế trong năm nay và những năm tới./.