Tỷ giá USD/VND dự báo sẽ giảm xuống 22.525 đồng vào cuối năm 2021 nhưng năm 2022 có thể sẽ đảo chiều về mức 23.000 đồng khi đồng bạc xanh mạnh hơn trên thị trường quốc tế.
Đó là nhận định của ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối kinh doanh tiền tệ, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng HSBC Việt Nam.
Tỷ giá có thể tăng trong năm 2022
Ông Khoa phân tích sau kỳ điều chỉnh hạ giá mua vào của Ngân hàng Nhà nước xuống mức 22.750 đồng từ ngày 11/8, tỷ giá USD/VND tiếp tục vận động theo xu hướng giảm cho đến nay. Tại thời điểm đầu tháng Chín, cặp tỷ giá USD/VND giao dịch quanh mốc 22.760-22.770 đồng, đồng thời là mức thấp nhất trong vòng vài năm trở lại đây. Tính riêng từ đầu năm 2021, tiền Đồng đã tăng giá khoảng 1,47% so với đồng bạc xanh.
VND cũng là một trong số ít các loại tiền tệ trong khu vực đã tăng giá so với USD từ đầu năm đến nay. Xu hướng này chủ yếu được thúc đẩy bởi sự thay đổi chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.
Tính từ tháng Sáu, Ngân hàng Nhà nước đã giảm giá mua vào tổng cộng 375 đồng xuống mốc 22.750 đồng và là mức giảm tổng cộng 450 đồng nếu tính từ tháng 11 năm 2019 sau khi trải qua 6 lần điều chỉnh. Xu hướng này cũng được cho là đi ngược với những năm trước đó khi VND thường xuyên trượt giá so với USD. Mức độ cắt giảm cho đến nay cũng được đánh giá là lớn hơn và sớm hơn dự kiến, tiếp tục thể hiện chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt, chủ động của Ngân hàng Nhà nước.
[Giãn cách xã hội kéo dài có thể gây sức ép lạm phát trong năm 2022]
“Khối nghiên cứu toàn cầu của HSBC kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ tiếp tục duy trì chính sách điều hành tỷ giá như trong thời gian qua, với mục tiêu giảm tỷ giá mua USD thêm. Theo đó, USD/VND được dự báo sẽ giảm từ 22.750 đồng vào cuối quý 3 xuống 22.525 vào cuối năm 2021,” ông Khoa nhấn mạnh.
Ông Khoa cùng Nhóm nghiên cứu HSBC cũng đưa ra dự báo, bước sang năm 2022, tỷ giá USD/VND sẽ đảo chiều về mức 23.000 đồng trong bối cảnh tài khoản vãng lai chuyển sang thâm hụt, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào chậm lại. VND có thể đứng trước áp lực đối diện với một đồng bạc xanh mạnh hơn trên thị trường quốc tế và đồng Nhân dân tệ suy yếu hơn.
Theo nhóm nghiên cứu, trong năm 2021, VND đã vượt qua nhiều yếu tố bất lợi như những lo ngại về ảnh hưởng của dịch COVID-19 kéo dài khiến đà tăng trưởng chậm lại, cán cân thương mại thâm hụt và sự khác biệt chính sách tiền tệ với Fed. Tuy nhiên, những vấn đề này có thể trở nên nổi cộm hơn vào năm sau.
Cụ thể, thặng dư tài khoản vãng lai của Việt Nam thu hẹp xuống còn 0,4 tỷ USD trong quý 1 từ mức trung bình hơn 3 tỷ USD mỗi quý trong giai đoạn 2019-2020 và nhiều khả năng thâm hụt nhẹ trong quý 2. Thặng dư thương mại, vốn đã giảm xuống 5,9 tỷ USD trong quý 1 từ mức trung bình 6,5 tỷ USD trong giai đoạn 2019-2020, cũng bộc lộ thiếu hụt của tài khoản vãng lai khi tiếp tục thiếu các khoản thu từ khách du lịch. Thâm hụt dịch vụ và dòng thu nhập chính lên tới 8,2 tỷ USD, trong khi dòng tiền liên quan đến kiều hối đạt 2,6 tỷ USD.
Sự suy giảm trong tài khoản vãng lai có thể sẽ tăng tốc trong tương lai khi cán cân thương mại thâm hụt 1,3 tỷ USD mỗi tháng kể từ tháng Tư. Trong khi đó, thâm hụt dịch vụ lớn hơn là hậu quả trực tiếp của việc mất doanh thu du lịch. Trước khi COVID-19 bùng nổ, nguồn thu từ du lịch ròng (5-6 tỷ USD) để bù đắp thâm hụt do giao thông vận tải (4-5 tỷ USD) và thâm hụt liên quan đến dịch vụ khác (3-4 tỷ USD).
Về dòng vốn đầu tư nước ngoài, ông Khoa nhận định, các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ trước đến nay là nguồn chính của dòng vốn ngoại hối. Tuy nhiên, dòng tiền này gần đây đang chậm lại, với dữ liệu hàng tháng cho các khoản đầu tư đã thực hiện cho thấy sự sụt giảm từ mức trung bình là 1,8 tỷ USD từ tháng 4-12/2020 xuống còn 1,6 tỷ USD trong giai đoạn tháng 4-7/2021. Đối với dòng vốn danh mục đầu tư, với việc hạ dự báo tăng trưởng, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng trị giá 1,5 tỷ USD trong quý 1/2020-quý 1/2021, với rủi ro là việc rút các dòng vốn danh mục đầu tư này có thể gia tăng trong tương lai.
Doanh nghiệp nên xây dựng kịch bản đa dạng
Trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến hết sức phức tạp, nền kinh tế đứng trước nhiều thách thức trong quá trình phục hồi, trong đó trọng tâm là doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng kịch bản hoạt động và hoạch định chiến lược kinh doanh.
Theo đại diện HSBC, những khó khăn bao gồm, việc giãn cách xã hội kéo dài cùng với những quy định chặt chẽ trong vấn đề phòng chống dịch khiến nhiều doanh nghiệp phải tạm ngưng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, trong khi đó chi phí duy trì sản xuất tăng cao. Điều này gây ảnh hưởng đặc biệt đến vấn đề doanh thu và dòng tiền bị gián đoạn.
Ngoài ra còn có khó khăn trong việc duy trì nhân công, lực lượng lao động trong và sau dịch. Người lao động chịu ảnh hưởng nặng nề trong suốt thời gian dịch bệnh và sẽ gặp nhiều khó khăn khi quay trở lại làm việc khi dịch bệnh được kiểm soát. Tương tự như vấn đề mà nhiều quốc gia khác đã gặp phải, doanh nghiệp sẽ đứng trước nhiều thách thức trong việc thu hút cũng như duy trì các nguồn lợi cho người lao động. Nếu các vấn đề này không được giải quyết, năng lực sản xuất khó có thể quay trở lại giai đoạn trước dịch.
Bên cạnh đó, áp lực lạm phát leo thang, đặc biệt ở giá cả đầu vào cũng đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp. Chi phí vận hành tăng, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, vô hình chung sẽ tạo nhiều áp lực lên giá cả cung ứng nguyên vật liệu, từ đó cũng tạo ra nhiều thách thức đặc biệt với các doanh nghiệp trong các lĩnh vực có tính cạnh tranh cao và khó tăng giá cả đầu ra.
Đứng trước những khó khăn kể trên, ông Khoa khuyến cáo các doanh nghiệp cần phải chủ động trong vấn đề xây dựng các kịch bản đa dạng với từng tình huống. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần đặc biệt chú trọng trong vấn đề phòng vệ rủi ro, trong đó có rủi ro về dòng tiền, rủi ro về lãi suất và tỷ giá nhằm nắm thế chủ động trong việc dự phòng và ổn định tính thanh khoản, đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thông suốt./.