Không gian diễn xướng là nhà hát được xếp vào loại cổ nhất Việt Nam hiện nay,bởi từng được xây dựng cách đây 200 năm, dưới triều Nguyễn. Thời đó, Duyệt ThịĐường là nơi biểu diễn nghệ thuật như tuồng, múa, nhã nhạc cung đình cho nộicung vua.
Sau thời gian dài vắng bóng, nay nhà hát Duyệt Thị Đường đã được trùngtu trở lại phục vụ công chúng hàng ngày với 4 suất diễn/ngày trong các chươngtrình Nhã nhạc và múa hát cung đình tại Đại Nội Huế. Giá vé cho một chương trìnhnghệ thuật, nếu có thưởng thức trà cung đình là 120.000 đồng, còn lại là 70.000đồng có phục vụ nước uống bình thường.
Đạo diễn Trương Tuấn Hải, Giám đốc nhà hát nghệ thuật cung đình Huế cho biết: Làmột loại hình âm nhạc mang tính bác học của các triều đại quân chủ trong xã hộiViệt Nam suốt hơn 10 thế kỷ. Nhã nhạc nhằm tạo sự trang trọng cho các cuộc tế,lễ cung đình như Tế Giao, Tế miếu, Lễ Đại triều, Thường triều... Tinh hoa nàyđược cô đọng lại dưới triều Nguyễn, khiến cho Huế càng được khẳng định hơn vềmột trung tâm văn hóa tiêu biểu của dân tộc.
Các tiết mục được sưu tầm, giới thiệu sau khi Nhã nhạc Huế (Âm nhạc cung đìnhViệt Nam) được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại hiệnnay gồm có: Đối với loại hình Đại nhạc (Nhã nhạc Huế) có "Tam luân cửu chuyển,""Trống thái bình," "Song tấu trống kèn," "Cung bằng," "Đăng đàn cung," "Cung ai,Cung bằng" và "Bài Bóp."
Đối với Tiểu nhạc có: "Thập thủ liên hoàn," "Phú lụcđịch," "Độc tấu kèn bầu “Cung ai,” "Lưu thủy" và "Nhạc Thiều." Ngoài ra còn cóMúa cung đình với "Lân Mẫu xuất Lân nhi," "Lục Cúng hoa đăng," "Trình Tường tậpkhánh," "Nữ tướng xuất quân," "Long hổ hội," "Bát Dật Văn," "Bát Dật Võ," "VũPhiến," "Tam Quốc - Tây Du" và "Song Phụng..."
Múa Cung đình tham gia hội diễnđạt giải đặc biệt, "Tam luân cửu chuyển" đạt giải Bông Sen bạc...Nhiều cá nhânđạt Huy chương vàng, bạc, đồng qua các kỳ hội diễn trong toàn quốc.
Gần đây, Nhà hát nghệ thuật cung đình Huế đã chú trọng đến công tác sưu tầmnghiên cứu, coi đây là một công việc quan trọng, xuyên suốt quá trình thực hiệnnhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị di sản phi vật thể Nhã nhạc Huế, cũng như camúa cung đình, tuồng cung đình Huế. Riêng từ năm 2012 đến nay, nhà hát đã nghiêncứu thành công Nhã nhạc “Bài bản Tam Thiên,” hoàn thành hồ sơ nghiên cứu “Mặt nạtuồng Huế,” kết thúc giai đoạn I hồ sơ nghiên cứu Nhã nhạc “Bài bản Cung ai.”
Nhà hát đã hoàn chỉnh đề cương hồ sơ nghiên cứu “Xây dựng cơ sở dữ liệu Âm nhạcCung đình Huế,” được Sở Khoa học Công nghệ chấp thuận ký hợp đồng thực hiện (doTrung tâm làm chủ đề tài). Biểu diễn quảng bá di sản cung đình Huế trongFestival Huế 2012; dàn dựng chương trình nhã nhạc tham gia hội thi nhạc cụtruyền thống các dân tộc Việt Nam lần thứ I tại thành phố Huế; tham gia chươngtrình bế mạc năm du lịch quốc gia và liên hoan hợp xướng quốc tế 2012 tổ chứctại tại Huế…
Trưởng thành qua thời gian, hiện nay, Nhà hát nghệ thuật cung đình Huế đã quy tụđược hơn 170 nghệ sĩ, nhạc công, diễn viên, người làm công tác nghiên cứu khoahọc. Đội ngũ cán bộ, diễn viên nhà hát đều được đào tạo bài bản, trong đó có 75người có trình độ đại học và cao đẳng chuyên ngành. Một số khác được đào tạotheo lối "truyền nghề" của các nghệ nhân đi trước như cụ Trần Kích, cụ Lữ HữuThi, cụ Lữ Hữu Cử.
Riêng nghệ nhân Trần Kích trước lúc mất đã kịp giúp nghiêncứu, ký âm hoàn chỉnh góp phần ghi lại được 30 bài bản về Đại nhạc và Tiểu nhạc(Nhạc cung đình Việt Nam) để truyền nghề cho học trò, và giúp cho chương trìnhđào tạo khoá Nhã nhạc Huế hệ đại học tại Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Cụ Thivà cụ Cử là hai anh em, đều là những tay chơi nhạc cự phách của đội nhạc HoàThanh trong cung đình (còn gọi là Tiểu nhạc) còn lại hiện nay ở Huế, nên việctranh thủ "vốn liếng" nghề nghiệp của các cụ để truyền cho lớp trẻ đã được nhàhát Duyệt Thị Đường quan tâm hơn bao giờ hết.
Theo sách sử thì Nhã nhạc ra đời vào triều Lý (1010-1225) và hoạt động một cáchquy củ vào thời Lê (1427-1788), là loại hình nhạc mang tính chính thống, với quymô tổ chức chặt chẽ. Song, vào giai đoạn cuối của triều Lê, âm nhạc cung đìnhdần dần đi vào thời kỳ suy thoái và nhạt phai dần. Đến thời Nguyễn (1802-1945),vào nửa đầu thế kỷ XIX, âm nhạc cung đình phát triển trở lại.
Triều đình Nguyễnquy định 7 thể loại âm nhạc, gần giống với các thể loại của triều Lê, bao gồm:Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc,Cung trung nhạc. Dưới thời Nguyễn, Nhã nhạc được dùng trong các lễ tế đại triều2 lần/tháng, thường triều 4 lần/tháng: Nam Giao, Tịch Điền, sinh nhật vua vàhoàng hậu. Tế bất thường: Đăng quang, lễ tang của vua và hoàng hậu, đón tiếp sứthần. Tùy theo từng cuộc tế lễ mà có các thể loại khác nhau, như Đại triều nhạcdùng trong lễ Nguyên đán, Ban sóc. Đại yến cửu tấu nhạc dùng trong mừng thọ,chúc thọ, tiếp đãi sứ thần. Cung trung nhạc biểu diễn trong trong các cunghoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu; Miếu nhạc sử dụng tại các nơi thờ vua,chúa; Ngũ tự nhạc dùng trong tế Xã tắc, Tiên nông.
Tuy nhiên, vào cuối thời Nguyễn, chỉ còn duy trì 2 loại dàn nhạc là Đại nhạc(gồm trống, kèn, mõ, bồng, xập xõa) và tiểu nhạc (trống bản, đàn tỳ bà, đàn nhị,đàn tam, địch, tam âm, phách tiền)...tức là Nhã nhạc Huế (Âm nhạc cung đình ViệtNam) hiện nay./.