Phát triển hệ thống cảng biển: Cần tầm nhìn dài hạn

Nghị quyết số 09/NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược biển đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước, trong đó kinh tế dầu khí đứng thứ nhất, tiếp theo là kinh tế hàng hải và phấn đấu sau 20 năm, kinh tế hàng hải sẽ vươn lên vị trị thứ nhất.

Với mục tiêu này, việc quy hoạch, xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại, quản lý đồng bộ, hiệu quả cũng như phát triển hệ thống dịch vụ logistics có vai trò vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo lưu thông hàng hóa, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Nghị quyết số 09/NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược biển đặtmục tiêu phấn đấu đến năm 2020 kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng53-55% tổng GDP của cả nước, trong đó kinh tế dầu khí đứng thứ nhất, tiếp theolà kinh tế hàng hải và phấn đấu sau 20 năm, kinh tế hàng hải sẽ vươn lên vị trịthứ nhất.

Với mục tiêu này, việc quy hoạch, xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại, quảnlý đồng bộ, hiệu quả cũng như phát triển hệ thống dịch vụ logistics có vai tròvô cùng quan trọng nhằm đảm bảo lưu thông hàng hóa, phục vụ phát triển kinhtế-xã hội.

Tại hội nghị chuyên đề về quy hoạch, quản lý khai thác cảng biển và logisticsdo Bộ Giao thông Vận tải vừa tổ chức tại Hà Nội, các vấn đề trên đã được thảoluận một cách sâu sắc.

Kết quả chưa như kỳ vọng

Đánh giá về công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý cảng biển cũng nhưphát triển dịch vụ logistics hiện nay, ông Đỗ Hồng Thái, Phó Cục trưởng Cục Hànghải Việt Nam, cho biết hiện Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, hỗ trợtích cực cho sự phát triển các ngành kinh tế và sự hội nhập.

Hệ thống cảng biển của Việt Nam cơ bản phát triển theo quy hoạch tổng thế.Nếu không tính đến các cảng nổi dầu thô ngoài khơi, hệ thống cảng biển Việt Namđang có 30 cảng biển hoạt động với 166 bến cảng, 350 cầu cảng, tổng chiều dàikhoảng 45.000m cầu cảng với năng lực thông qua khoảng 350-370 triệu tấn/năm.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều bất cập trong việc xâydựng, phát triển hệ thống cảng biển. Theo ông Thái, do việc đầu tư khai thácnhóm cảng biển phía Bắc chưa đạt yêu cầu, cụm cảng biển ở Hải Phòng đang đối mặttình trạng quá tải. Ngược lại, các cảng ở khu vực Cái Mép-Thị Vải mới được đầutư xây dựng đang gặp khó khăn để tìm nguồn hàng.

Tại khu vực miền Trung, ngoài cảng Quy Nhơn, hầu hết các cảng còn lại từnhiều năm nay đang khai thác dưới công suất. Thêm vào đó là còn thiếu cầu bếncho tàu trọng tải lớn, đặc biệt là các bến cho tàu container vận hành trên tuyếnbiển xa.

Ông Ngô Minh Tuấn, Phó Tổng giám đốc Công ty Tân Cảng Sài Gòn, cho biết kếtquả sản xuất kinh doanh năm 2011 và những tháng đầu năm 2012 tại các cảngcontainer thuộc nhóm cảng biển số 5 là rất đáng lo ngại. Hầu hết các cảngcontainer khu vực Cái Mép-Thị Vải đều thua lỗ, ít cũng 6-7 triệu USD, nhiều thìtới 20-30 triệu USD.

Mạng kỹ thuật hạ tầng sau cảng (bao gồm điện, nước, đường giao thông sắt, bộnối mạng quốc gia...) hiện cũng chưa đồng bộ với quy mô, thời điểm đưa cảng vàovận hành khai thác. Theo đánh giá, hầu hết các cảng chính đều nằm sâu phía trongsông, lại gần các trung tâm dân cư đô thị nên rất khó cải tạo nâng cấp luồng vàđường giao thông kết nối cảng.

Phó Cục trưởng Đỗ Hồng Thái cho biết, hiện hệ thống hạ tầng phục vụ logisticsvẫn yếu kém cả về năng lực vận tải và khả năng kết nối hệ thống cũng như kết nốigiữa các phương thức vận tải. Tình trạng trên diễn ra là do sự phối hợp chưa tốtgiữa các cơ quan quản lý về quy hoạch và các địa phương nơi trực tiếp cấp đất vàcấp phép đầu tư các dự án. Mặc dù việc cấp đất, cấp phép đầu tư đều tuân theoquy hoạch chuyên ngành nhưng phân mảnh, nhỏ lẻ và chưa đúng tầm nhìn quy hoạchdài hạn.

Ngoài ra, cũng do các chủ đầu tư khác nhau đầu tư và tự tổ chức quản lý, khaithác cảng không đảm bảo tính tổng hợp, đồng bộ về nguồn lực, không đảm bảo tínhthống nhất các hoạt động kinh tế hàng hải. Đặc biệt, có nơi, có lúc đã xuất hiệncạnh tranh không lành mạnh, làm suy yếu và thiệt hại lẫn nhau giữa nhà đầu tư,khai thác cảng.

Ông Nguyễn Hồng Trường, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, nhận xét với nhữngbất cập lớn về cả phần cứng (phát triển hạ tầng) và phần mềm (xây dựng, quản lýquy hoạch và ban hành cơ chế vận hành các cảng biển trong nước) nếu không sớmkhắc phục tình trạng chưa có sự quản lý, tổ chức thực hiện đồng bộ tại cảngbiển, đầu tư phân mảnh, chia rẽ... thì việc mục tiêu nâng tầm kinh tế hàng hảisẽ rất khó đạt được.

Cần phát triển đồng bộ

Theo Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Công, trước mắt Bộ sẽ tiến hànhrà soát, thống kê toàn bộ hệ thống cảng biển để đánh giá nhu cầu, sự cần thiếtvà tính khả thi đối với các dự án xây dựng chưa triển khai.

Bên cạnh đó, Bộ sẽ phối hợp với các địa phương kiểm tra, giám sát chặt chẽviệc thực hiện quy hoạch, thực hiện đầu tư các dự án theo quy hoạch, có thể kiếnnghị thu hồi giấy phép đầu tư đối với các dự án không thực hiện đúng thời hạnquy định.

Thu hút các nguồn lực cho phát triển cảng biển cũng là những vấn đề được quantâm hiện nay. Theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Công, Bộ Giao thông Vận tải sẽ kiếnnghị Chính phủ tập trung nguồn vốn ngân sách đầu tư kết cấu hạ tầng cảng biểncủa các dự án trọng điểm, có tính đột phá. Các bến cảng không thuộc diện cấpbách sẽ thực hiện đầu tư theo hướng xã hội hóa.

Bộ cũng sẽ tiếp tục rà soát, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật chuyênngành hàng hải, tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp hoạt động; tăng cường kếtnối hạ tầng giao thông với cảng biển; thu hút lượng hàng hóa đi qua các cảngthông qua việc xây dựng các trung tâm phân phối hàng hóa, các nhà máy sản xuất,lắp ráp, chế biến sau cảng...

Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường cũng cho biết, để tránh tình trạng manh mún, sẽcó chế tài trong quản lý quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển. Những tổ chức,cá nhân nào vi phạm quy hoạch sẽ kiên quyết dừng dự án đầu tư. Bộ Giao thông Vậntải sẽ giảm tối đa bổ sung quy hoạch ngắn hạn và phải tính dài hạn.

Bên cạnh đó, Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam cũng kiến nghị, đối với những cảng cửangõ trọng điểm quốc gia, cần có cơ chế chiến lược linh hoạt để phát triển nhanhhơn lên tầm cao mới, đủ sức cạnh tranh quốc tế, trong đó cần xem trọng cơ chếđiều tiết và làm thông thoáng thị trường, ưu tiên đảm bảo hiệu quả cho những dựán đầu tư có quy mô lớn.

Song song với đó là tạo điều kiện chuyển dịch nhanh hàng hóa sử dụng cảngnước sâu để giảm giá thành xuất nhập khẩu, củng cố vai trò chủ đạo của các doanhnghiệp cảng trong nước tại các cảng cửa ngõ quốc gia.

Đối với yếu tố đảm bảo tính bền vững về kinh tế, theo đại diện Hiệp hội Cảngbiển Việt Nam, ngoài yếu tố xã hội và môi trường, nói chung vấn đề mẫu chốt làtính đồng bộ về dịch vụ theo chuẩn mực chung trong một môi trường pháp lý vàcạnh tranh lành mạnh với các mức giá phù hợp để đảm bảo hiệu quả cho các dự ánđầu tư.

Ngoài ra, khi dịch vụ cảng biển được nâng lên mức quốc tế thì những dịch vụhỗ trợ đi kèm cũng cần đảm bảo được cung ứng đầy đủ và với năng suất, chấtlượng, mức độ an toàn tương đương./.

Quang Toàn (TTXVN)

Tin cùng chuyên mục

Nông dân thu hoạch lúa mỳ trên cánh đồng ở vùng Stavropol, Nga. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Nga đề xuất thành lập sàn giao dịch ngũ cốc BRICS

Nga, quốc gia xuất khẩu lúa mỳ lớn nhất thế giới, đã đề xuất thành lập một sàn giao dịch ngũ cốc BRICS, sau này có thể mở rộng sang giao dịch các mặt hàng chính khác như dầu, khí đốt và kim loại.