Làm chủ công nghệ, không ngừng sáng tạo... là “mệnh lệnh trái tim” phát ra từ các công trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam).
Sự thành công của những công trình này đã và đang làm lợi cho đất nước hàng ngàn tỷ đồng, đảm bảo hiệu quả kinh tế của các nhà máy, mỏ dầu khí, giúp nhiều địa phương chuyển dịch cơ cấu sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân...
Nhiệm vụ xuyên suốt
Nhắc đến nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ tại PetroVietnam, phải khẳng định, đây là một nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển của tập đoàn, luôn được Đảng và Chính phủ nhấn mạnh đối với ngành Dầu khí.
Trong Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng “Chiến lược phát triển ngành Dầu khí đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035,” cũng như Nghị quyết 55 về định hướng “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đều nhấn mạnh: PetroVietnam phải tăng cường áp dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ trong công tác tìm kiếm, gia tăng trữ lượng dầu mỏ, sản xuất kinh doanh dầu khí, điện, đạm, năng lượng mới (dầu đá phiến, khí hydrate, khí hidro…) đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
[PVN quyết liệt phòng dịch, đảm bảo thông suốt sản xuất-kinh doanh]
Mục tiêu tổng quát Chiến lược phát triển của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh việc cần phải xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ mạnh bằng những giải pháp đột phá. Đây được xem là động lực và nền tảng để tập đoàn tăng tốc phát triển và phát triển bền vững.
Qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, PetroVietnam đã không ngừng nâng cao tiềm lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, chủ động tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phát huy sáng tạo, tối ưu hiệu quả công nghệ hiện có để đạt trình độ ngang bằng với các công ty dầu khí trong khu vực và trên thế giới.
Hàng trăm giải thưởng đã được trao tặng cho các thành tựu về khoa học công nghệ của ngành Dầu khí, trong đó có những giải thưởng cao quý như 5 Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ, nhiều giải thưởng VIFOTECH…
Một số công trình tiêu biểu, như: Cụm công trình khoa học và công nghệ “Nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế, thi công, lắp đặt các công trình dầu khí biển siêu trường, siêu trọng phù hợp với điều kiện Việt Nam" được triển khai và hoàn thành sau hơn 10 năm hay nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận được thực hiện và triển khai liên tục trong 25 năm.
Thành công của “con nhà nghèo”
Thông thường, khi nghe về những con số lợi ích, thành tựu của các công trình khoa học nêu trên đem lại đối với ngành Dầu khí cũng như đối với đất nước, sẽ dễ bỏ qua yếu tố khởi đầu nan…
Ví dụ như giải pháp sớm đưa khí đồng hành tại các mỏ dầu ngoài khơi về bờ đem lại lợi nhuận, phát điện tới hàng chục ngàn tỷ đồng cho khu vực Đông Nam Bộ; hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 làm lợi được khoảng 2.636 tỷ đồng; hay các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ tối ưu hóa quá trình sản xuất của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã làm lợi khoảng 4.270 tỷ đồng…
Nhưng có một điều khá đặc biệt trong công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tại PetroVietnam, trên thực tế, ít người biết rằng khởi đầu của các công trình khoa học này người Dầu khí đều bắt tay vào thực hiện với tâm thế của “con nhà nghèo.”
Thành công của khoa học công nghệ PetroVietnam không thể không kể đến Cụm công trìnhnghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận” cũng bắt đầu từ năm đầu tiên của thập niên 90.
Khi đó, Liên doanh Vietsovpetro mới khai thác được dầu tại Bạch Hổ, nhưng công nghệ thời đó chỉ khai thác dầu, còn khí đồng hành phải đốt bỏ. Trong khi đó, đất nước đang thiếu điện trầm trọng để phát triển kinh tế.
Thực tế đó đã thôi thúc các cán bộ, kỹ sư của Vietsovpetro nghiên cứu và thực hiện thu gom khí, vận chuyển, chế biến đưa khí đồng hành vào bờ để phát điện, sản xuất phân đạm.
Kết quả năm 1995, sau khai thác dầu, bằng những giải pháp khoa học công nghệ đột phá, trong điều kiện thiếu thốn cơ sở vật chất, Vietsovpetro lại tiên phong đưa khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào bờ, tạo nên bước nhảy vọt của ngành Dầu khí Việt Nam, tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp khí hiện đại.
Theo ông Nguyễn Xuân Quang, Giám đốc Xí nghiệp khoan và sửa giếng Vietsovpetro, ngành Dầu khí Việt Nam đến những năm thập niên 90 của thế kỷ 20 hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ của Liên Xô từ trang thiết bị đến đào tạo.
Trong giai đoạn đó, công nghệ địa vật lý giếng khoan tại Vietsovpetro nói riêng đều là kỹ thuật tương tự, xử lý minh giải thủ công nên không đạt được chất lượng có thể cạnh tranh quốc tế, do thời gian từ lúc đo đến ra kết luận phải mất hàng tháng, trong khi các nước phát triển đang làm dịch vụ tại Việt Nam chỉ mất dưới 1 tuần.
Bởi vậy, để không bị đào thải khỏi cuộc chơi dịch vụ dầu khí, các cán bộ Xí nghiệp Địa vật lý Giếng khoan Vietsovpetro đã nỗ lực tự tìm tòi học hỏi sáng tạo nên cái mới, cái ưu việt hơn về công nghệ.
Trong những năm đó, các chuyên gia, kỹ sư Vietsovpetro đã nhặt nhạnh cả các thiết bị thuộc dạng “không thể sửa chữa, không thể tìm mua” để mổ xẻ, nghiên cứu, rồi tích hợp những tính năng ưu việt nhất của chúng và chế tạo ra một Trạm đo carota tổng hợp có giá thành chỉ 5.000 USD, bằng chưa đầy 10% so với giá thiết bị tương tự nếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Đặc biệt ấn tượng với từ “xách tay” trong việc công trình nghiên cứu chế tạo này, bởi nó rất đời thường, có hình ảnh rất cụ thể và quen thuộc đối với người dầu khí nói chung và những nhà địa vật lý nói riêng.
Bởi thực tế, thiết bị của một trạm đo của Nga trước đây, cùng các thiết bị phối hợp tương ứng có khối lượng và trọng lượng lên đến cả trăm kg thì nay, các kỹ sư của Vietsovpetro đã chế tạo ra một trạm đo tổng hợp có thể minh giải tài liệu địa vật lý, đo đạc các tầng móng đá nứt nẻ chứa dầu… chỉ nặng chưa đến 10kg, nhỏ gọn như một máy tính cá nhân.
Đây cũng chính là thiết bị nhỏ gọn và có nhiều tính năng ưu việt nhất trên thế giới hiện nay khi so sánh với cả các sản phẩm của các nhà chế tạo thiết bị dầu khí hàng đầu thế giới như Haliburton (Mỹ), Huangding (Trung Quốc…
Năm 2009, được sự tin tưởng và ủng hộ của Chính phủ, Tập đoàn, Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (BIENDONG POC) được giao trọng trách nghiên cứu, triển khai thực hiện công tác thi công chế tạo các công trình lớn của dự án Biển Đông 1.
Trong đó, khối thượng tầng nặng 12.500 tấn và khối chân đế nặng 11.500 tấn của giàn công nghệ trung tâm và nhà ở Hải Thạch (PQP-HT) là các công trình có khối lượng vượt gấp nhiều lần các công trình đã từng thực hiện trước đó tại Việt Nam. Đây là nhiệm vụ mà các chuyên gia giám sát, tư vấn quốc tế cho rằng bất khả thi.
Tuy nhiên, Công ty Dịch vụ Cơ khí hàng hải PTSC đơn vị được giao trọng trách, tưởng chừng như bị dồn vào chân tường khi xuất phát gần như là con số không, đã vượt qua khó khăn nhiều mặt về nguồn lực, về cơ sở hạ tầng, thách thức về tiến độ để hoàn thành dự án sau đúng 2 năm.
Đến nay, với việc nghiên cứu hoàn thiện và ứng dụng Cụm công trình khoa học công nghệ, thực hiện thành công thiết kế, thi công, chế tạo và lắp đặt giàn khoan siêu trường siêu trọng, PTSC&MC đã trở thành nhà thầu EPCI (xây dựng-lắp đặt-vận hành và chuyển giao) quốc tế duy nhất của Việt Nam vươn ra thị trường thế giới, được chủ đầu tư các quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Ghana, Quatar… tin tưởng, giao thầu các dự án có giá trị lên tới hơn 600 triệu USD.
Động lực và nền tảng để phát triển bền vững
Nhận thức đúng đã tạo sự gắn kết khoa học công nghệ với công nghiệp dầu khí, thúc đẩy sự hình thành và triển khai các công trình nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, gắn kết nghiên cứu với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại PetroVietnam.
Hiện nay khoa học công nghệ đã được áp dụng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn, đặc biệt các nghiên cứu tập trung vào các hướng chuyên môn, chuyên ngành.
Công tác nghiên cứu điều tra cơ bản về dầu khí được tập đoàn chú trọng triển khai tích cực và kết quả nghiên cứu được coi là cơ sở khoa học tin cậy, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển dài hạn của tập đoàn, giúp đưa ra quyết sách, chủ trương đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh; ngoài ra còn giúp các Bộ, ngành quy hoạch phát triển kinh tế đất nước.
Công tác nghiên cứu điều tra cơ bản còn mang tính dẫn dắt, mở ra các hướng nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo, các hướng nghiên cứu mới trong công tác tìm kiếm các loại dầu khí phi truyền thống như khí than, khí sét, khí hydrate…
Các hoạt động khuyến khích tham gia vào nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng được PetroVietnam tổ chức dưới nhiều hình thức phong phú như các hội thi sáng tạo; vinh danh xứng đáng các công trình sáng kiến, sáng chế; tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học công nghệ trong nước và quốc tế; mở các diễn đàn để trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và giải pháp quản lý…
Công nghệ là cơ sở của nền công nghiệp. Công nghệ và quản lý công nghệ được coi là công cụ biến đổi mạnh mẽ nhất ở cả những nước phát triển và đang phát triển.
Việc xây dựng năng lực quản lý công nghệ, nhân tố chính của tiềm lực công nghệ, có tầm quan trọng sống còn đối với một tập đoàn kinh tế kỹ thuật như PetroVietnam.
Điều này làm tăng tốc độ của quá trình tiếp thu, đồng hoá, phổ biến công nghệ nhập, tăng được khả năng lựa chọn công nghệ một cách độc lập, giúp hoàn thiện và cải tiến các kỹ thuật đã được chọn và dần dần tạo ra được các công nghệ nội sinh, yếu tố cần thiết để tạo nên thành công.
Nhân kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 8 (18/5/2014-18/5/2021), ông Hoàng Quốc Vượng, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng thành viên PetroVietnam đã có thư gửi tới các tập thể, cá nhân, các thế hệ cán bộ nghiên cứu và quản lý khoa học công nghệ, những người tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ trong toàn tập đoàn.
Năm 2021, PetroVietnam bắt đầu triển khai thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học giai đoạn 2021-2025, với những chương trình khoa học công nghệ trọng điểm, mang tính đột phá.
"Đây sẽ là cơ sở nền tảng để phát triển sản phẩm, dịch vụ chủ lực, mang thương hiệu Dầu khí Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế," ông Hoàng Quốc Vượng nhấn mạnh.
Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn cũng yêu cầu các đơn vịtập trung nguồn lực thực hiện kế hoạch khoa học công nghệ có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời mong muốn đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý khoa học công nghệ trong toàn tập đoàn nỗ lực hơn nữa, tích cực ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạt động sản xuất kinh doanh... tạo ra những giải pháp đột phá, góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của tập đoàn./.