Tìm đường đi trong "mớ bòng bong"
Trước đổi mới, đất nước chìm sâu trong khủng hoảng kinh tế-xã hội, tình hình sảnxuất trì trệ, các chỉ tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1981-1985) đều không đạt,nhiều lĩnh vực mức tăng trưởng là số âm, lạm phát tăng phi mã, đời sống của cánbộ, công chức và nhân dân vô cùng khó khăn, hơn 7 triệu người thiếu đói, dự trữquốc gia đặc biệt là ngoại tệ cực thấp.
Trong khi đó, tình hình thế giới diễn biến ngày càng xấu, bất lợi cho Việt Nam.Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và châu Âu đứng trước khả năng bị sụp đổ.
Sau Đại hội VI, Việt Nam chẳng những không còn nhận được viện trợ của các nướcxã hội chủ nghĩa, mà trao đổi ngang giá cũng chững lại, thị trường xuất khẩungày càng bị thu hẹp.
Cùng lúc đó, các thế lực đế quốc và phản động quốc tế triệt để lợi dụng tìnhhình để vu cáo, xuyên tạc, thực hiện “diễn biến hòa bình,” ra sức bao vây, cấmvận, cô lập Việt Nam.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đềunhận thấy đổi mới thì sống, không đổi mới thì chết. Nhưng đổi mới như thế nàothì thắng lợi, thì sống là những điều khiến các nhà lãnh đạo đất nước trăn trở.
Trong mớ bòng bong của những vấn đề trong nước và quốc tế chằng chịt, đan xen vôcùng phức tạp rối ren, nếu không biết đổi mới bắt đầu từ đâu, theo phương châm,tư tưởng chỉ đạo và nguyên tắc nào để gỡ mối đi ra thì đổi mới cũng có thể chết.Trọng trách này trước hết đặt trên vai Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Người đứng đầu Đảng suy nghĩ, trăn trở tìm khâu đột phá đầu tiên cho đổi mới.Ngay sau Đại hội VI, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh triệu tập Hội nghị Trung ươnglần thứ hai và chọn vấn đề phân phối, lưu thông làm chủ đề chính.
“Giải quyết vấn đề phân phối, lưu thông có liên quan chặt chẽ với quá trình sảnxuất, với tổng thể cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân... Làm được việc đó, chắcchắn sẽ là bước khởi đầu tốt đẹp, tạo đà chuyển biến mạnh mẽ cho những bướcsau,” Tổng Bí thư phân tích.
Trung ương đã bàn thảo rất kỹ và đi tới thống nhất lấy phân phối, lưu thông làmkhâu đột phá đầu tiên của đổi mới.
Phân tích nguyên nhân trực tiếp của lạm phát phi mã ở Việt Nam vào thời điểm đólà bội chi ngân sách liên tục làm cho giá cả rối ren, tăng vọt, đời sống của cánbộ và nhân dân gặp nhiều khó khăn, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ đạo thực hiệnngay bốn giảm: giảm tốc độ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độlạm phát và giảm khó khăn về đời sống của nhân dân.
Tổng Bí thư cũng yêu cầu thi hành một số biện pháp cấp bách: tách hệ thống tàichính ra khỏi ngân hàng, lập kho bạc nhà nước, bơm tiền cho lưu thông, mở rộnggiao lưu hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ.”
Những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn này được các cơ quan Nhà nước triển khai kịpthời, đồng bộ và kiên quyết đã tác động tích cực và mạnh mẽ đến quá trình sảnxuất và lưu thông, tháo gỡ những ách tắc cho “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất,tạo ra động lực cho sản xuất phát triển. Nhờ đó, tình trạng khan hiếm nhiều loạihàng hóa được khắc phục từng bước, tiền lương, giá cả, ngân sách, lãi suất ngânhàng dần dần được giải quyết tốt; lạm phát từ ba con số (1987) đã giảm xuống haicon số (61% năm 1991).
Không chỉ vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đặc biệt chú ý chỉ đạo giải phóng sứcsản xuất trong nông nghiệp bởi trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phảilấy mặt trận nông nghiệp làm khâu đột phá.
Năm 1988, Tổng Bí thư đã chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị, đánh giá mặt được vànhững hạn chế sau 7 năm thực hiện “khoán 100” trong nông nghiệp, và đi tới Nghịquyết số 10 của Bộ Chính trị (khoán 10).
Nghị quyết này đi nhanh vào cuộc sống đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất trongnông nghiệp. Chỉ sau một năm từ một nước hằng năm phải nhập nửa triệu tấn lươngthực, năm 1989, Việt Nam đã sản xuất đủ nhu cầu trong nước, còn xuất khẩu đượchơn 1 triệu tấn gạo.
Mài sắc ngòi bút cho báo chí
Cùng thời gian lãnh đạo thực hiện những đột phá trên lĩnh vực kinh tế-tài chính,thực hiện phương châm của Đại hội VI như dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nóiđúng sự thật, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khởi xướng chuyên mục những việc cần làm ngay trên báo chí.
Ngày 25/5/1987, báo Nhân Dân đăng bài đầu tiên “Những việc cần làm ngay” dưới kýtên N.V.L.
Bài viết nêu rõ: "Thực hiện đổi mới, thì việc chống tiêu cực đã thành nhiệm vụquan trọng dọn đường cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyếtkhác của Đảng nhằm đưa nước nhà khỏi cảnh khó khăn, đi đến ổn định tình hình mọimặt, làm cho dân bớt khổ, ngày càng được hạnh phúc.
Tổng Bí thư đòi hỏi báo chí phải là vũ khí sắc bén, nhà báo phải là chiến sĩdũng cảm trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực.
Trên báo Nhân Dân ngày 24/6/1987, tác giả N.V.L viết: “Nhà báo phải có tấm lòngcương trực: yêu người làm đúng, làm tốt để ca ngợi; ghét kẻ làm xấu, làm sai,làm ác để lên án.”
Cuộc đấu tranh chống tiêu cực được tác giả N.V.L khởi xướng đã mau chóng trởthành một phong trào rộng lớn trên báo chí và các phương tiện thông tin cả nước.
Chính người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Báo chí hưởng ứng đã cótác dụng tốt, tạo khí thế trong nhân dân để đẩy mạnh phê bình, tự phê bình,chống bọn tham nhũng, ăn cắp, ức hiếp nhân dân. Phải tiếp tục phanh phui các vụ,việc và xử lý thật nghiêm.”
Đổi mới ở Việt Nam giành thắng lợi là nhờ ngay từ đầu đã xác định rõ mục tiêu,nội dung, phương châm, tư tưởng chỉ đạo cốt lõi và nguyên tắc của đổi mới. TổngBí thư Nguyễn Văn Linh đã có cống hiến to lớn trong việc xác định những nguyêntắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới của dân tộc. Những nguyên tắc này được hìnhthành ở Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (3/1989) và Hội nghị Trung ương lần thứ 7(8/1989); bổ sung và được hoàn thiện tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (3/1990).
Những nguyên tắc này đã trở thành cơ sở để thống nhất tư tưởng và hành độngtrong toàn Đảng, toàn dân, là sự bảo đảm chắc chắn cho sự nghiệp đổi mới khôngbị chệch hướng xã hội chủ nghĩa và đi tới thành công.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nêu ra và kiên trì thực hiện đổi mới có nguyêntắc - đổi mới nhưng luôn luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững vàtăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhândân, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhờ vậy đã củng cố sựthống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng, chấn chỉnh được những biểu hiệndao động, chệch hướng, mất niềm tin, đem lại định hướng vững chắc cho sự nghiệpđổi mới.
Tổng Bí thư xác định: “Để tiến hành công cuộc đổi mới ở bất cứ lĩnh vực nào củađời sống xã hội, cần phải chuẩn bị trước về cơ sở lý luận. Sự khám phá về lýluận phải là tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạtđộng thực tiễn.” Như vậy là lý luận luôn gắn với thực tiễn và từ tổng kết thựctiễn mà rút ra những kết luận mới bổ sung cho lý luận.
Cùng đổi mới tư duy lý luận, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chú ý đổi mới công táccán bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Dưới sự chủ trìcủa Tổng Bí thư, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã tự phê bình và phê bình trước Hộinghị Trung ương lần thứ VIII (3/1990) về việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đạihội VI. Những sai phạm về nguyên tắc đổi mới, tuyên truyền quan điểm đa nguyên,đa Đảng, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng đã bị phê phánnghiêm khắc và xử lý kỷ luật.
Đưa con thuyền Việt Nam tiến ra biển lớn
Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định điều chỉnh chính sách đốingoại, phá thế bất lợi, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới.Quan điểm này được Hội nghị Bộ Chính trị (20/5/1988) bàn thảo và thống nhấttrong Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về điều chỉnh đường lối đối ngoại, tậptrung giữ vững môi trường quốc tế hòa bình và phát triển kinh tế.
Tổng Bí thư và Bộ Chính trị thống nhất xác định ba ưu tiên hàng đầu trong đốingoại lúc này là rút quân khỏi Campuchia, bình thường hóa quan hệ Việt-Trung vàcải thiện đi tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Tại buổi lễ kỷ niệm lần thứ 10 Quốc khánh Cộng hòa Nhân dân Campuchia, khi đólực lượng của bạn đã đủ mạnh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố Việt Nam sẽrút hết quân khỏi Campuchia vào tháng 9/1989. Sự kiện Việt Nam rút hết quân khỏiCampuchia đã vô hiệu hóa con bài của các thế lực phản động, đồng thời nó cũng mởđường cho việc xóa bỏ cấm vận của Mỹ, tiến tới bình thường hóa quan hệ với ViệtNam.
Các nước phương Tây và ASEAN đã vượt qua lệnh cấm vận của Mỹ, bắt đầu làm ăn vớiViệt Nam.
Năm 1989, việc bình thường hóa quan hệ Việt-Trung đã đáp ứng lợi ích của hainước, đồng thời góp phần vào tăng cường hòa bình, ổn định hợp tác ở khu vực; gópphần làm thay đổi tích cực tình hình Đông Nam Á; từ đây các nước ASEAN, NhậtBản, Hàn Quốc, nhiều nước thuộc châu Á và cả Hoa Kỳ đã lần lượt bình thường hóaquan hệ và làm ăn với Việt Nam.
Những năm đầu đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh còn tiến hành nhiều hoạt độngngoại giao khác nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của nước ViệtNam trên trường quốc tế.
“Việt Nam luôn luôn muốn có quan hệ tốt đối với nhân dân Mỹ, chính phủ Mỹ. Chiếntranh đã kết thúc 15 năm mà chưa có quan hệ bình thường là chậm. Việt Nam sẵnsàng giải quyết mọi trở ngại trên con đường bình thường hóa; trở ngại còn lại làở phía Mỹ,” Tổng Bí thư tuyên bố với các nhà báo quốc tế.
Những năm đầu trong công cuộc đổi mới, với những hoạt động đối ngoại liên tục,tích cực, chủ động và nhạy bén, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã góp phần từngbước phá vỡ thế bao vây, cô lập của kẻ thù đối với Việt Nam, giảm áp lực chínhtrị-ngoại giao đối với Việt Nam khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới khủng hoảng,mở ra bước chuyển mới trên thực tế thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở: ViệtNam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòabình, độc lập và phát triển.
Những năm đầu của công cuộc đổi mới, khó khăn chồng chất, có lúc tưởng chừng đổimới thất bại nhưng với tài năng và đức độ của "thuyền trưởng" - Tổng Bí thưNguyễn Văn Linh, con thuyền cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới đã vượt qua ghềnhthác và bão tố từng bước giành thắng lợi. Đây cũng là những tiền đề quan trọngtiến thẳng theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiếp tục giành thắnglợi vẻ vang từ sau khóa VI của Đảng./.