Việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại được xem là một phần quan trọng trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia bởi mục đích là bảo vệ hoặc hỗ trợ ngành sản xuất trong nước trong quá trình hội nhập, tự do hóa.
Trong bối cảnh đó, do năng lực xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng nhanh, nên hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trở thành đối tượng của các biện pháp phòng vệ thương mại của các đối tác thương mại.
Trao đổi với phóng viên, ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công Thương) cho rằng, các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ là công cụ hữu hiệu giúp các ngành sản xuất có thể duy trì và phát triển trong một môi trường cạnh tranh công bằng, tạo thêm giá trị gia tăng và đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Xu hướng gia tăng các biện pháp phòng vệ thương mại
- Thưa ông, trong 2 tháng đầu năm, hoạt động sản xuất công nghiệp và xuất khẩu sản phẩm hàng hoá công nghiệp chế biến giảm. Vậy, theo ông nguyên nhân của tình trạng này có phải là do chúng ta chịu áp lực từ các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá của Việt Nam hay không?
Ông Chu Thắng Trung: Hoạt động sản xuất công nghiệp và xuất khẩu sản phẩm hàng hóa công nghiệp chế biến 2 tháng đầu năm có sự giảm sút do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do kinh tế thế giới đang ở giai đoạn khó khăn, hồi phục chậm, tổng cầu giảm; nguy cơ suy thoái kinh tế, lạm phát và lãi suất tiếp tục duy trì ở mức cao khiến nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh tại các quốc gia trên thế giới trong đó có khu vực châu Âu-châu Mỹ.
[Tăng khả năng phòng vệ cho doanh nghiệp ngành thép]
Bên cạnh đó, xung đột tại Ukraine khiến giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng và logistics toàn cầu vẫn ở mức cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp trong nước. Các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại không phải là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nêu trên.
Tuy nhiên, tình hình khó khăn về kinh tế có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các quốc gia. Từ đó, các quốc gia có thể sử dụng nhiều hơn các công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước của mình và tạo ra tác động tiêu cực kép đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Một vụ việc điều tra phòng vệ thương mại có thể kéo dài từ 12 đến 18 tháng trước khi biện pháp phòng vệ thương mại chính thức được áp dụng nên Cục vẫn tiếp tục theo dõi, đánh giá xu hướng này để có các biện pháp kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp xử lý một cách có hiệu quả các cuộc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
- Xu hướng áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước trong thời gian tới ra sao, đặc biệt là ở thị trường chúng ta đã có các FTA mới như (CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP)?
Ông Chu Thắng Trung: Đến nay, Việt Nam đã tham gia 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) trong đó có nhiều FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP). Các hiệp định này giúp doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế quan, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, mang lại lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu.
Tuy nhiên, nếu hàng hóa xuất khẩu tăng quá nhanh sẽ tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh là ngành sản xuất tại nước nhập khẩu, khiến họ có thể tìm đến việc sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, là những biện pháp được Tổ chức Thương mại thế giới cũng như quy định trong các hiệp định thương mại tự do cho phép áp dụng để hạn chế nhập khẩu.
Bên cạnh các thị trường đã ký hiệp định thương mại tự do với Việt Nam, xuất khẩu sang một số thị trường khác chưa có hiệp định thương mại tự do như Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Argentina cũng có thể gặp rủi ro bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại do đây là những thị trường thường xuyên sử dụng các biện pháp này để bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Đáng chú ý, các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại với Việt Nam có xu hướng gia tăng, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ.
Nguyên nhân chủ yếu của các vụ việc điều tra chống lẩn tránh là do các đối tác nhập khẩu nghi ngờ hàng hóa bị điều tra chưa đáp ứng điều kiện “chuyển đổi đáng kể,” tức là chưa có một hàm lượng giá trị gia tăng đủ lớn trong sản phẩm được tạo ra tại Việt Nam.
Việc xác định thế nào là “chuyển đổi đáng kể” là một vấn đề phức tạp, còn nhiều tranh cãi, tùy thuộc vào từng mặt hàng cụ thể và theo quy định của mỗi quốc gia nhập khẩu có thể khác nhau. Cùng với xu hướng dịch chuyển sản xuất và phát triển các chuỗi giá trị khu vực, đây sẽ tiếp tục là một vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp trong thời gian tới.
- Ông nhìn nhận như thế nào về vai trò của công cụ phòng vệ thương mại trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam, nhất là tại thị trường nội địa?
Ông Chu Thắng Trung: Tính đến nay, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra 25 vụ việc phòng vệ thương mại và có 17 biện pháp phòng vệ thương mại hiện vẫn đang còn hiệu lực. Các mặt hàng là đối tượng điều tra tương đối đa dạng, bao gồm các sản phẩm kim loại, hóa chất-chất dẻo, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng cơ bản, trong đó có nhiều sản phẩm có mối quan hệ mật thiết và đặc biệt quan trọng đối với đời sống của người nông dân.
Chẳng hạn như việc Bộ Công Thương áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp với đường mía nhập khẩu từ Thái Lan đã có tác động tích cực đối với ngành mía đường, giúp người nông dân tiêu thụ hết mía đã thu hoạch và tăng đáng kể nguồn thu nhập từ mía. Theo phản ánh, nhiều địa phương đã có kế hoạch mở rộng diện tích trồng mía cho các năm tiếp theo. Bên cạnh đó, cung-cầu đường trên thị trường cơ bản ổn định, giá đường trên thị trường tuy có nhích lên nhưng không tăng đột biến.
Nhờ việc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hợp lý, phù hợp với cam kết quốc tế, các ngành sản xuất trong nước được bảo vệ trước những hành vi cạnh tranh không bình đẳng, từ đó tạo điều kiện để các ngành sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm và giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Ở góc độ tiêu dùng, các biện pháp phòng vệ thương mại trong dài hạn giúp cho nền kinh tế không bị phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu, đem lại sự ổn định và chống chịu tốt hơn trước các tác động và cú sốc từ bên ngoài.
Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng phòng vệ thương mại đối với các nguyên liệu cơ bản cũng giúp tăng khả năng tận dụng cam kết trong các hiệp định thương mại tự do, đồng thời làm giảm nguy cơ Việt Nam bị nước ngoài điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại do ta đã chủ động đảm bảo được nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước.
Tránh phát triển quá nóng vào một thị trường
- Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó và sử dụng công cụ phòng vệ thương mại như thế nào?
Ông Chu Thắng Trung: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các ngành sản xuất, xuất khẩu trong nước phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, cải tiến phương thức tổ chức sản xuất để có thể cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa nhập khẩu ngay trên chính thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, Cục Phòng vệ Thương mại cũng luôn theo sát và thực hiện các hoạt động phòng vệ thương mại trên cơ sở yêu cầu của ngành sản xuất trong nước, để ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu theo đúng quy định pháp luật và cam kết quốc tế.
Cụ thể, Cục đang triển khai Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 2/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,” tập trung vào các hoạt động tăng cường thông tin, kiến thức về các biện pháp phòng vệ thương mại cho các ngành sản xuất trong nước.
Cục cũng sẽ phối hợp với các hiệp hội, đơn vị liên quan theo dõi sát tình hình sản xuất, nhập khẩu để kịp thời có biện pháp phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nền các ngành sản xuất trong nước.
Đối với các vụ việc điều tra, Cục Phòng vệ Thương mại sẽ tiếp tục tiến hành một cách công khai, minh bạch theo đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo ý kiến của tất cả các bên có lợi ích liên quan đều được lắng nghe, đưa ra những kết luận phản ánh chính xác nhất thực tế nhằm ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu.
- Ông khuyến nghị từ phía cơ quan quản lý trong việc ứng phó và sử dụng công vụ phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp?
Ông Chu Thắng Trung: Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang diễn biến khó lường, mâu thuẫn thương mại giữa nhiều nền kinh tế tiếp tục diễn biến phức tạp thì xu thế sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trên thế giới tiếp tục gia tăng.
Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ và Bộ Công Thương, việc xử lý hiệu quả các hoạt động điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của ta đòi hỏi sự tích cực, chủ động tham gia của cộng đồng doanh nghiệp.
Để giảm thiểu tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại, các ngành sản xuất, xuất khẩu và doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường, tránh phát triển quá nóng vào một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng và hạn chế việc cạnh tranh bằng giá; cân nhắc các rủi ro về phòng vệ thương mại khi xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu, của mình; trang bị kiến thức cơ bản về pháp luật phòng vệ thương mại.
Đồng thời, chuẩn bị nguồn lực để đối phó với các nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại; theo dõi thông tin cảnh báo của Bộ Công Thương trong quá trình xuất khẩu sang các nước; tuân thủ chặt chẽ các quy định về chứng nhận xuất xứ; không tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tham gia hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra và phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong quá trình xử lý vụ việc.
Các ngành sản xuất trong nước cũng cần hiểu rõ các quy định pháp luật về phòng vệ thương mại để có thể sử dụng một cách phù hợp nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của ngành trước các hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng nhập khẩu.
Trong bối cảnh các biện pháp thuế quan thông thường có xu hướng tiếp tục giảm dần, các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ là công cụ hữu hiệu giúp các ngành sản xuất có thể duy trì và phát triển trong một môi trường cạnh tranh công bằng, tạo thêm giá trị gia tăng và đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
- Xin cảm ơn ông./.