Báo cáo “Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế” của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố sáng nay (3/12) cho thấy, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh hơn.
Tăng trưởng kinh tế đạt 5,6%
Các chuyên gia của WB cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự báo sẽ cải thiện từ mức 5,4% năm 2013 lên 5,6% năm 2014 (con số này thấp hơn so với mức 5,9% mà Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đưa ra tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên 2014). Chỉ số lạm phát cơ bản hay các tỷ lệ lạm phát khác đều cơ bản ổn định trong năm 2014 ở mức 4,5%.
Kết quả khả quan này nhờ ổn định kinh tế vĩ mô và hiệu quả hoạt động của các ngành chế biến, chế tạo hướng về xuất khẩu có vốn đầu tư nước ngoài. Điều kiện kinh tế vĩ mô tích cực cũng giúp cải thiện vị trí xếp hạng của Việt Nam về rủi ro quốc gia, giúp Chính phủ phát hành thành công trái phiếu trên thị trường quốc tế, huy động được 1 tỷ USD với điều kiện khá hợp lý.
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định: Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cải cách và hoàn thiện môi trường kinh doanh là mấu chốt để đưa nền kinh tế vươn tới quỹ đạo tăng trưởng mới.
Tuy nhiên, tại báo cáo lần này, WB cũng chỉ ra rằng, thực tế trong nền kinh tế Việt Nam, kết quả hoạt động của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tư nhân trong nước là khá tương phản. Trong khi khu vực FDI tiếp tục là nguồn tăng trưởng quan trọng thì hoạt động của khối doanh nghiệp trong nước vẫn còn khó khăn, với số doanh nghiệp đóng cửa hoặc ngừng hoạt động vẫn gia tăng (khoảng 60.000 doanh nghiệp thành lập mới, trong khi có tới 54.300 doanh nghiệp đóng cửa, giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động).
Ông Sandeep Mahajan, chuyên gia kinh tế trưởng, trưởng Nhóm Báo cáo của WB cũng chia sẻ: “Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cao tuy nhiên những hoạt động của doanh nghiệp trong nước không tương đồng. Điều này thể hiện ở việc doanh nghiệp đóng cửa, phá sản tạm ngừng hoạt động khá lớn trong suốt nhiều năm qua. Mặc dù trong nền kinh tế thị trường, đóng cửa, phá sản là điều bình thường nhưng số liệu đóng cửa đang tăng lên so với mở mới là điều đáng lo ngại. Chính phủ cần chú ý tăng hiệu quả của các ngành trong nước sẽ tốt hơn nhiều.”
Còn bà Victoria Kwakwa nhận định: “Tiềm năng để kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn chỉ có thể trở thành hiện thực khi có tiến bộ thực sự trong việc giải quyết những bất cập của khu vực doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng, hiện đang gây trở ngại tới hiệu quả và năng suất của nền kinh tế. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cải cách và hoàn thiện môi trường kinh doanh là mấu chốt để đưa nền kinh tế vươn tới quỹ đạo tăng trưởng mới.”
Về nội dung cải cách doanh nghiệp nhà nước, mặc dù hoạt động có tích cực nhưng vẫn chậm hơn so với mục tiêu đề ra. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra quan điểm rõ ràng về cải cách doanh nghiệp nhà nước nhưng vấn đề quan trọng theo WB là phải thực hiện một cách nhất quán và quyết liệt.
Khu vực tài chính hoạt động kém
WB đánh giá tín dụng của Việt Nam đã tăng dần nhưng vẫn dưới mức kỳ vọng, hạn chế nỗ lực của các cơ quan chức năng trong việc thúc đẩy tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Theo các chuyên gia của WB, tăng trưởng tín dụng phần nào vẫn bị ảnh hưởng bởi cân đối tài chính không tốt của các ngân hàng, mối lo ngại về sức khỏe tài chính của bên đi vay, thị trường bất động sản èo uột và nhu cầu tín dụng suy yếu do niềm tin giảm của người tiêu dùng và nhà đầu tư. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng tiếp tục tăng ở mức khá cao, đảm bảo đủ thanh khoản trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Nới lỏng chính sách tiền tệ hơn nữa trong một bối cảnh như vậy ít có khả năng tạo ra nhiều tác động tới tăng trưởng tín dụng chung.
Ngoài ra, hiệu quả hoạt động kém của khu vực tài chính là do một loạt phức hợp các vấn đề về thể chế và quy định pháp lý. Những vấn đề này bao gồm các cơ quan chức năng trung ương và địa phương can thiệp vào các quyết định về đầu tư và tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước. Cơ cấu quản trị của các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại nhà nước không phù hợp và năng lực quản trị rủi ro còn yếu.
WB cũng đánh giá, một số ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam có hoạt động tín dụng với khách hàng có quan hệ; cơ sở hạ tầng tài chính còn yếu kém, với những bất cập về các tiêu chuẩn báo cáo tài chính; việc quản lý và giám sát đối với khu vực tài chính còn nhiều lỗ hổng./.