Chiều 16/3, tại Phủ Chủ tịch, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước đối với Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước (Pháp lệnh), đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV, phiên họp thứ 20, thông qua ngày 28/2/2023.
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Phạm Thanh Hà chủ trì họp báo.
Pháp lệnh gồm 5 chương, 21 điều; có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2023.
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính là những chủ thể có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của Luật Kiểm toán nhà nước.
Để đảm bảo tính thống nhất với quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 3 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, khoản 3 Điều 4 của Pháp lệnh quy định: “Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước khi đang thi hành công vụ, nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vụ thì không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức và quy định khác của pháp luật có liên quan.
[Kiểm toán Nhà nước nâng cao đạo đức công vụ trong kiểm tra, giám sát]
Cơ quan nhà nước thực hiện hành vi vi phạm thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước thì không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mà bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan.”
Đáng chú ý, Điều 5 của Pháp lệnh quy định, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước được xác định căn cứ vào các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước.
Các hành vi bao gồm, vi phạm quy định về các hành vi bị nghiêm cấm (khoản 2 và khoản 3 Điều 8); vi phạm quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán (Điều 57 và Điều 58); vi phạm quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước(Điều 68 của Luật Kiểm toán nhà nước).
Về hình thức xử phạt, đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt hành chính, bao gồm: phạt cảnh cáo; phạt tiền.
Căn cứ quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và để phù hợp với đặc thù hoạt động kiểm toán nhà nước, Pháp lệnh quy định 2 biện pháp khắc phục hậu quả gồm buộc cải chính thông tin, tài liệu, dữ liệu có nội dung sai lệch, không chính xác hoặc không trung thực; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp (nếu có) do thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
Mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước của cá nhân là 50 triệu đồng; của tổ chức là 100 triệu đồng.
Bên cạnh đó, Pháp lệnh quy định 7 điều, tương ứng với 7 nhóm loại hành vi vi phạm (là các hành vi phổ biến, xảy ra thường xuyên trên thực tế) tương ứng với đó là hình thức, mức phạt tiền và các biện pháp khắc phục hậu quả.
Cụ thể, đó là các hành vi vi phạm: các quy định về gửi báo cáo định kỳ; quy định về cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện việc kiểm toán; quy định về trả lời và giải trình liên quan đến nội dung kiểm toán; hành vi không ký biên bản kiểm toán, không chấp hành quyết định kiểm toán; hành vi mua chuộc, hối lộ thành viên đoàn kiểm toán, cản trở công việc của kiểm toán nhà nước; hành vi che giấu hành vi vi phạm pháp luật về tài chính công, tài sản công, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán, kết quả kiểm toán; hành vi vi phạm quy định về thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của kiểm toán nhà nước./.