Sau hơn 500 năm, những nghệ nhân làng Bảo Hà (xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo,thành phố Hải Phòng) vẫn nức danh với nghề làm tượng Phật. Về Bảo Hà hôm nay khắp đường làng, ngõ xóm là những xưởng tạc tượng suốt ngàynhộn nhịp tiếng cưa đục. Người dân Bảo Hà đang làm giàu từ chính nghề truyềnthống của ông cha. Xưa kia, làng nghề tạc tượng Bảo Hà từng là nơi sản xuất tượng đẹp có tiếng ở xứĐông (trấn Đông của kinh thành Thăng Long xưa). Từ thế kỷ XV, ông tổ nghề Nguyễn Công Huệ đã bày cho người dân trong vùng nghềtạc tượng. Tương truyền, bức tượng tổ Nguyễn Công Huệ và tượng thánh Linh LangĐại Vương trong miếu cổ làng Bảo Hà là những tác phẩm để đời của cụ. Ngày nay, khi kinh tế thị trường phát triển, những người dân Bảo Hà đã mạnh dạnlàm giàu cho bản thân và quê hương từ nghề cổ. Từ những xưởng nhỏ, nhiều gia đình đã mở rộng quy mô thành xưởng sản xuất lớnhơn đáp ứng những đơn đặt hàng ngày càng nhiều, điển hình như xưởng của ông VănTúy (Hội nghệ nhân thành phố Hải Phòng). Bà Nguyễn Thị Ngần, một chủ xưởng chia sẻ: “Tổ tiên đã để lại một nghề quý chocon cháu. Nghề cổ này là nghề giúp chúng tôi có thu nhập. Nếu nói cuộc sống khágiả lên rất nhiều do nghề nghiệp của tiên tổ để lại cũng không có gì quá.” Năm 2007 làng nghề Bảo Hà, xã Đồng Minh được Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòngcông nhận là “Làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ - sơn mài.” Hiện nay, trong số 973 hộ làm nghề ở Bảo Hà, có tới 180 hộ tạc tượng với 20xưởng sản xuất lớn nhỏ, tạo việc làm cho hơn 200 lao động địa phương.
Hàng năm, làng nghề đóng góp 40% giá trị sản xuất công nghiệp địa phương, thunhập trung bình mỗi xưởng lớn không dưới 30 triệu đồng/tháng, tháng nào nhiềuđơn hàng có thể lên tới 50 triệu đồng. Những con số trên tuy chưa nhiều song đã cho thấy sự phối hợp của địa phương vàngười dân trong việc gìn giữ và phát triển nghề tạc tượng. Làng nghề Bảo Hà đã là một địa điểm trong chương trình "Du khảo đồng quê" của dukhách mỗi khi về Vĩnh Bảo tham quan khám phá du lịch làng nghề. Nói về đặc trưng của tượng ở Bảo Hà, bà Nguyễn Thị Ngần cho biết, khách hàng ởkhắp nơi, trong nước và nước ngoài chuộng tượng được làm ở Bảo Hà vì cái thếtượng luôn vững chãi và cân đối, mạnh mẽ về hình khối. Những đường nét trêntượng chân thật như thể đang “tạc” hồn nhân vật. Với người thợ Bảo Hà, từ khi là anh phó học nghề, đến khi mắt đã quen nhìn vànhập tâm từng mẫu tượng là sự học hỏi không phải ngày một ngày hai.
Quan sát họ làm chúng tôi mới thấy, ngoài sự tài hoa, khéo léo của người dân quê,họ còn có sự nhuần nhuyễn của người thợ giỏi. Khi hợp đồng vừa đưa đến, trongđầu người thợ đã hình thành được tư thế tượng; tạo dáng thế nào; kích cỡ cũng đãđược áng chừng. Tuy đạt đến mức “thuận mắt quen tay” nhưng mỗi công đoạn không vì thế mà ngườithợ làm cẩu thả, chủ quan, trái lại rất khoa học. Ví như việc đẽo gọt từng bộphận rồi chắp lại cho khít, hay công đoạn sơn được người thợ làm cẩn thận để tạora được màu “sơn son thếp vàng” bền vững qua năm tháng không bị bào mòn. Ngoài thể hiện hình tượng có tính cổ điển khuôn mẫu, tượng truyền thần - mộtmảng sáng tạo nữa của nghệ nhân Bảo Hà cũng rất đặc sắc. Mỗi bức tượng được thựchiện khá chân thật, khi hóm hỉnh, khi chất phác, khi hiền hậu. Người nghệ nhânthể hiện được khí chất, tính cách của những con người bình thường trên tượngtruyền thần. Điều đó càng khẳng định sự khéo léo của người thợ Bảo Hà.
Giữa thanh âm đục đẽo của xưởng, tôi cứ lặng ngồi quan sát từng tốp thợ miệt màiđẽo gọt những thớ gỗ vô tri thành những “tác phẩm nghệ thuật.” Tôi đã thấy cái tài và cả cái tâm của những người “nghệ sỹ nông dân” này. Thiếtnghĩ, bằng cách này người dân Bảo Hà không chỉ tự hào, trân trọng vốn quý mà ôngcha để lại mà còn là sự gìn giữ thiết thực nhất đối với nghề truyền thống củaquê hương./.