Tiếp tục Chương trình kỳ họp thứ 3, sáng 15/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội tiến hành thảo luận ở hội trường về dự án Luật Dầu khí (sửa đổi).
Trước đó, ngày 3/6, Quốc hội đã nghe đại diện Chính phủ trình bày Tờ trình; Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Dầu khí (sửa đổi).
Dự thảo Luật gồm 11 Chương, 64 Điều; kế thừa các điều khoản cơ bản của Luật Dầu khí hiện hành, bảo đảm tính ổn định, liên tục của các hợp đồng dầu khí, Hiệp định đã ký kết; bảo đảm tính tương thích, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế.
Qua thảo luận tại tổ, 90 lượt ý kiến đại biểu Quốc hội tham gia thảo luận về các nội dung, quy định của dự án Luật này. Ý kiến của các đại biểu đã được Tổng Thư ký Quốc hội tổng hợp và gửi báo cáo tới các đại biểu Quốc hội.
Trong phiên thảo luận toàn thể tại hội trường về dự thảo Luật, đa số đại biểu Quốc hội bày tỏ tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật Dầu khí để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn về phát triển ngành dầu khí với vai trò là một trong những ngành quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước.
Cho ý kiến cụ thể vào các quy định của dự thảo Luật, các ý kiến của đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận vào các nội dung như tên gọi, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật, các quy định về áp dụng pháp luật, điều tra cơ bản, hợp đồng dầu khí, nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí, ưu đãi về dầu khí, quản lý nhà nước về dầu khí... cùng các vấn đề khác các đại biểu quan tâm để hoàn thiện dự án Luật đạt chất lượng cao.
Đại biểu Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa) cho rằng về nguyên tắc áp dụng pháp luật quy định tại khoản 2, Điều 4 chưa thực sự phù hợp, đề nghị cần xem xét lại. Bởi quy định này vẫn chưa giải quyết được xung đột, chồng chéo trong quá trình áp dụng Luật Dầu khí với các luật khác có liên quan như Luật Đầu tư; Luật Xây dựng; Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Do vậy, để đảm bảo thống nhất, hạn chế xung đột pháp luật giữa Luật Dầu khí và các luật có liên quan, kể cả pháp luật quốc tế và thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế, đại biểu đề nghị cần xem xét quy định rõ trong dự thảo Luật nguyên tắc áp dụng Luật Dầu khí theo hướng hạn chế tối đa việc dẫn chiếu đến quy định pháp luật tại luật khác để đảm bảo tính khả thi, rõ ràng và thống nhất trong quá trình thực hiện.
Cho rằng vấn đề bảo vệ môi trường trong các hoạt động dầu khí, quy định tại dự thảo Luật còn chưa thật cụ thể, dẫn đến khó đảm bảo triển khai trong thực tiễn, chưa gắn được trách nhiệm nếu xảy ra sự cố về môi trường, đại biểu Nguyễn Văn An (Thái Bình) đề nghị bổ sung quy định cụ thể về việc kiểm tra, giám sát hợp đồng dầu khí và các hoạt động dầu khí.
Các quy định này giao cho Chính phủ quy định chi tiết, vì hầu như các mỏ đều nằm ở ngoài biển xa và muốn tới đó để kiểm tra, khảo sát tình hình sinh thái, môi trường biển quanh mỏ rất khó khăn.
Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) nhấn mạnh dầu khí là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và nếu xét về vai trò trong phát triển kinh tế, tài nguyên dầu khí chỉ đứng thứ hai sau đất đai, những đóng góp của ngành dầu khí thời gian qua là rất đáng trân trọng.
[Dự án Luật Dầu khí sửa đổi phải đáp ứng yêu cầu đặt lợi ích quốc gia]
Về định hướng sửa đổi dự thảo Luật này, đại biểu cho rằng, một trong những định hướng sửa đổi quan trọng là cần hình thành cơ chế đặc thù để thu hút đầu tư nước ngoài. Đây là định hướng hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, dự thảo Luật cũng cần đề cao tính thận trọng bởi trên thực tế dầu khí là nguồn tài nguyên không tái tạo và trong những năm qua giá dầu khí luôn tăng cao.
Tham gia thảo luận, đại biểu Phan Đức Hiếu (Thái Bình) cho biết, dự thảo Luật Dầu khí lần này bổ sung rất nhiều quy định để nhằm thúc đẩy hoạt động điều tra cơ bản về dầu khí, đồng thời nêu rất rõ mục tiêu Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư để tiến hành điều tra cơ bản về dầu khí và hoạt động dầu khí.
Tuy nhiên, theo đại biểu, dự thảo Luật lại chưa quy định cụ thể về cơ chế khuyến khích. Thậm chí khi đối chiếu với Chương VI về các chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư này chỉ áp dụng cho hoạt động dầu khí, mà hoạt động dầu khí lại không bao gồm hoạt động điều tra cơ bản.
Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu xem xét có nên áp dụng các biện pháp khuyến khích ưu đãi đầu tư tại Chương VI đối với hoạt động điều tra cơ bản hay không. Trong trường hợp không áp dụng, đại biểu đề nghị thiết kế ngay trong Luật những cơ chế, chính sách để áp dụng đối với hoạt động điều tra cơ bản.
Đại biểu cũng lưu ý khi thiết kế chính sách này cần đặc biệt lưu ý đến chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu.
Về lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng dầu khí theo Chương III của dự thảo, từ Điều 16 đến Điều 19 của dự thảo Luật có đề cập đến các hình thức đấu thầu rộng rãi, hạn chế, đấu thầu cạnh tranh, chào hàng cạnh tranh, chỉ định thầu, trong đó đưa ra các quy trình thực hiện là không cần thiết. Theo đại biểu Phạm Đức Ấn (Hà Nội), những nội dung này về mặt quy trình thủ tục đã được quy định trong Luật Đấu thầu.
Dự thảo Luật quy định điều tra cơ bản dầu khí vào hoạt động dầu khí trong phạm vi đất liền, hải đảo, vùng biển của Việt Nam. Tuy nhiên, đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (Khánh Hòa) cho rằng, hoạt động dầu khí của Tập đoàn dầu khí Việt Nam không chỉ bó hẹp trong lãnh thổ Việt Nam mà còn có nhiều dự án hợp tác về dầu khí các quốc gia khác trên thế giới.
Do đó, đại biểu cho rằng, trong dự thảo Luật cần mở rộng phạm vi điều chỉnh và bổ sung một chương riêng để làm rõ quy định về hợp tác đầu tư hoạt động dầu khí Việt Nam tại nước ngoài, quy định rõ những nội dung nào cần tuân thủ những quy định gì để tránh gây nên những thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước.
Góp ý vào dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi), đại biểu Trần Hoàng Ngân (Thành phố Hồ Chí Minh) nêu những con số ấn tượng về ngành dầu khí như hiện nay Việt Nam còn 51 hợp đồng đang tiếp tục khai thác; ngành dầu khí Việt Nam đã khai thác trên 420 triệu tấn dầu và trên 160 tỷ m3 khí.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - doanh nghiệp nòng cốt của ngành dầu khí đã có những đóng góp quan trọng cho tổng thu ngân sách nhà nước và tổng sản phẩm quốc nội; giai đoạn 2006-2015 đóng góp khoảng 20-25% tổng thu ngân sách và GDP. Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 33 trên 98 quốc gia có sản lượng dầu khai thác trong năm 2021.
Theo đại biểu, đây là một thành tựu rất đáng khích lệ nhưng hiện nay hầu hết các mỏ dầu khí chủ đạo, đều đang khai thác với mức độ suy giảm sâu về sản lượng. Các mỏ mới dự kiến đưa vào phần lớn các mỏ có cấu tạo phức tạp, trữ lượng nhỏ, công tác khai thác gặp nhiều khó khăn và thách thức nguồn tài nguyên dầu khí tại chỗ.
Trong khi đó, các thể chế, chính sách hiện hành chưa có cơ chế khuyến khích phù hợp cho hoạt động đầu tư để phát triển các mỏ nhỏ và cận biên, khuyến khích thu hút thêm nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Góp ý chi tiết nội dung dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi), đại biểu Trần Hoàng cho biết, mặc dù, Ban soạn thảo có nghiên cứu, tham khảo các luật của Malaysia, Indonesia… song còn một số tồn tại, đó là khó khăn trong xây dựng luật là làm sao để tách bạch được chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của Tập đoàn Dầu khí quốc gia; làm sao khuyến khích được xã hội hóa, thu hút được nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được tư nhân nhưng vẫn đảm bảo được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo được an ninh, quốc phòng.
Trong dự thảo Luật, việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng chưa rõ ràng.
Dự kiến, cuối phiên thảo luận, lãnh đạo Bộ Công Thương - cơ quan chủ trì soạn thảo Luật sẽ phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu./.