Trong tuần qua, giá lúa các loại ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có sự nhích lên ở một số loại. Giá xuất khẩu gạo cũng tăng sau khi có thông tin Indonesia có thể sẽ mua 2 triệu tấn gạo của Việt Nam trong năm nay.
Số liệu từ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy, giá lúa tại Sóc Trăng có sự tăng giá ở một số loại như sau: Đài thơm 8 là 7.900 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; ST tăng 200 đồng/kg lên 8.500 đồng/kg; OM 5451 là 7.700 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Tại Cần Thơ, giá lúa vẫn giữ ổn định như Jasmine là 7.600 đồng/kg, OM 4218 là 6.600 đồng/kg; IR 50404 ở mức 6.200 đồng/kg.
Giá lúa tại Tiền Giang như Jasmine ổn định ở mức 7.300 đồng/kg; lúa OC10 giá 6.800 đồng/kg; riêng IR 50404 là 6.700 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, lúa OM 18 đang được thương lái thu mua tại ruộng với mức từ 6.300-6.500 đồng/kg; OM 5451 từ 6.200-6.400 đồng/kg; Nàng hoa 9 từ 6.100-6.200 đồng/kg. Riêng IR 50404 từ 6.000-6.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg, tương tự Đài thơm 8 cũng tăng 100 đồng/kg đạt từ 6.400-6.600 đồng/kg.
Với nếp lai có sự giảm giá, tại An Giang có giá từ 6.000-6.300 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; nếp Long An từ 6.600-6.800 đồng/kg, cũng giảm 200 đồng/kg.
An Giang đang bước vào cao điểm thu hoạch lúa Đông Xuân, thời tiết thuận lợi, năng suất cao. Đến nay, An Giang đã thu hoạch được trên 114.952 ha, đạt 50,52% diện tích xuống giống; năng suất bình quân ước đạt 7,55 tấn/ha, cao hơn 0,29 tấn/ha so với cùng kỳ.
[Thị trường nông sản tuần qua: Giá lúa vẫn duy trì ở mức cao]
Cùng với năng suất cao, giá lúa cũng tăng hơn so với vụ Đông Xuân năm trước khoảng 500-1.100 đồng/kg đã tạo sự phấn khởi với người nông dân.
Các loại lúa tươi như Đài Thơm 8, OM 18, IR 50404... được nông dân bán cho thương lái hoặc nhận tiền đặt cọc thỏa thuận trước khi thu hoạch lúa với giá từ 5.900-7.100 đồng/kg.
Tỉnh Tiền Giang cũng đang khẩn trương thu hoạch nhanh gọn trà lúa Đông Xuân. Vụ này, năng suất lúa trên địa bàn tỉnh đạt bình quân 71 tạ/ha.
Tại đây, giá các giống lúa chất lượng cao đều tăng khá so với vụ Đông Xuân năm trước. Điển hình như các giống lúa ST 24, ST 25 thương lái thu mua từ 7.200-7.300 đồng/kg; Nàng hoa 9 thương lái thu mua từ 7.100-7.200 đồng/kg; lúa giống OM 5451 giá 6.800 đồng/kg; Đài thơm 8 giá 7.000 đồng/kg.
Theo đánh giá, nhờ những giải pháp chủ động ứng phó hạn mặn, giảm nhẹ thiên tai, Tiền Giang đã có vụ sản xuất bội thu, trúng mùa, trúng giá.
Về xuất khẩu, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 460 USD/tấn vào phiên 30/3, tăng từ mức 450 USD/tấn của một tuần trước đó. Một thương nhân có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Giá tăng sau khi cơ quan thu mua lương thực của Indonesia cho biết họ sẽ mua 2 triệu tấn gạo của Việt Nam trong năm nay.”
Thương nhân này cho biết thêm: “Nguồn cung trong nước cũng đang khan hiếm mặc dù vụ thu hoạch đang diễn ra ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, do gạo 5% tấm chỉ chiếm 15-20% sản lượng gạo Việt Nam.”
Cùng chung xu hướng với gạo Việt Nam, giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng tăng từ 465 USD/tấn lên từ 475-482 USD/tấn. Hai thương nhân Thái Lan cho rằng sự gia tăng trên là do đồng baht mạnh hơn so với đồng USD. Một thương nhân có trụ sở tại Bangkok cho biết, mặc dù nguồn cung mới đã bắt đầu đưa vào thị trường nhưng với số lượng không lớn.
Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ khá ổn định trong tuần qua, sau khi chứng kiến 4 tuần giảm, nhờ đơn đặt hàng từ các khách hàng châu Phi tăng nhẹ, trong khi kỳ vọng về các đơn đặt hàng mới từ Indonesia đã đẩy giá gạo của Việt Nam lên cao hơn.
Cụ thể, giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ - nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới được báo ở mức từ 380- 385 USD/tấn trong tuần này - không thay đổi so với tuần trước và tương tự như mức đã thấy vào giữa tháng 1/2023.
Một nhà xuất khẩu có trụ sở tại Kakinada, bang Andhra Pradesh miền Nam Ấn Độ cho biết: “Nhu cầu gạo đã cải thiện đôi chút từ các nước châu Phi, nhưng lượng đặt hàng xuất khẩu trong tháng 4/2023 vẫn còn ít.”
Về thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) của Mỹ biến động ngược chiều trong phiên giao dịch cuối tuần 31/3, trong đó giá ngô và đậu tương đồng loạt tăng còn giá lúa mỳ đi ngang.
Khép phiên này, giá ngô giao tháng 5/2023 tăng 11 xu Mỹ (1,69%) lên 6,605 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao tháng 5/2023 đứng ở mức 672,925 USD/bushel, không đổi so với phiên trước đó. Trong khi đó, giá đậu tương giao cùng kỳ hạn cũng tăng 31 xu Mỹ (2,1%) lên 15,055 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Báo cáo dự trữ và kế hoạch gieo trồng tháng 3/2023 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy ngô, đậu tương và lúa mỳ mùa vụ cũ có xu hướng tăng, trong khi kế hoạch gieo trồng năm 2023 đối với ngô, đậu tương và lúa mỳ vụ Xuân của Mỹ gần đạt được kỳ vọng.
Dự trữ ngô trong mùa vụ tính tới ngày 1/3 của Mỹ ở mức 7,758 triệu bushels, tăng từ mức 7,696 triệu bushels ghi nhận trong cùng kỳ năm ngoái. Dự trữ đậu tương của Mỹ trong mùa vụ tính đến ngày 1/3 ở mức 1,685 triệu bushels, giảm 247 triệu bushels so với cùng kỳ năm ngoái và thấp hơn 70 triệu bushels so với ước tính. Dự trữ lúa mỳ vụ này là 946 triệu bushels, giảm 83 triệu bushels.
Mặc dù xuất khẩu lúa mỳ của Mỹ tính đến giữa tháng 3/2023 giảm xuống gần mức thấp nhất trong 40 năm, nhưng số liệu yếu kém về dự trữ lúa mỳ đã hỗ trợ giá mặt hàng này.
Tổng kế hoạch trồng trọt năm 2023 của Mỹ được dự báo là 318,1 triệu mẫu Anh (1 mẫu Anh= 0,4 ha), tăng 6 triệu mẫu Anh so với năm ngoái, đánh dấu diện tích gieo hạt lớn nhất kể từ năm 2019. Cụ thể, diện tích gieo hạt ngô của Mỹ là 92 triệu mẫu Anh, tăng từ 88,6 triệu mẫu Anh vào năm 2022.
Diện tích gieo hạt đậu tương của Mỹ ước tính là 87,2 triệu mẫu Anh, tương đương với năm ngoái. Tổng diện tích gieo hạt lúa mỳ năm 2023 của Mỹ đã tăng lên 49,9 triệu mẫu Anh, tăng 4,2 triệu mẫu Anh.
Thị trường càphê thế giới cho thấy, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá càphê Robusta trên sàn ICE Europe-London (Anh) biến động trái chiều. Giá càphê Robusta giao ngay tháng 5/2023 giảm 10 USD, xuống 2.206 USD/tấn, trong khi loại kỳ hạn giao tháng 7 tăng 2 USD, lên 2.173 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9/2023 tăng 4 USD, lên 2.138 USD/tấn. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.
Trái lại, giá càphê Arabica trên sàn ICE US-New York (Mỹ) nối tiếp xu hướng tăng của phiên trước. Giá càphê Arabica giao ngay tháng 5/2023 tăng 0,70 xu, lên 170,50 xu/lb. Loại có kỳ hạn giao tháng 7 cũng tăng thêm 0,70 xu, lên 169,70 xu/lb. Khối lượng giao dịch tăng lên rất cao trên mức trung bình (1lb = 0,45kg).
Thông tin lạm phát khu vực Eurozone đã giảm đáng kể nhưng báo cáo chỉ số giá tiêu dùng vẫn còn ở mức cao đã kích thị trường hàng hóa đảo chiều tăng trở lại. Tuy nhiên, sức tăng vẫn chưa đáng kể do nhiều quốc gia châu Âu đang chìm đắm trong nỗi lo nợ công, khi mà cuộc xung đột Nga-Ukraine vẫn còn kéo dài khiến sức tiêu thụ hàng hóa bị chậm lại.
Trong khi đó, những quy tắc tài chính mới ban hành của Chính phủ Brazil đã tiếp tục hỗ trợ đồng real mạnh thêm, đưa tỷ giá tăng thêm 0,54% lên ở mức 1 USD = 5,0690 real, khiến các nhà xuất khẩu không mua được hàng./.