Đợt dịch COVID-19 thứ 3 tại Việt Nam từ ngày 27/1 đến nay đã ghi nhận 366 trường hợp mắc bệnh, trong đó riêng tại tỉnh Hải Dương đã ghi nhận với số lượng lớn nhất với 277 ca mắc COVID-19.
Phân tích về tình hình dịch bệnh tại tỉnh Hải Dương, Phó giáo sư Trần Như Dương - Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Trưởng đoàn công tác của Viện tại Hải Dương nhận định chủng virus mới có tốc độ lây lan rất nhanh. Do đó, tất cả các lực lượng phải nỗ lực thần tốc, chạy đua với thời gian để có thể chiến thắng dịch bệnh.
- Thưa phó giáo sư, chủng virus mới ở Hải Dương có gì đáng lo ngại so với chủng virus ở Đà Nẵng?
Phó giáo sư Trần Như Dương: Virus ở Đà Nẵng là chủng cũ, khả năng lây nhiễm thấp, chu kỳ lây truyền dài đồng nghĩa với việc khả năng lây từ người nọ sang người kia ít, ít có trường hợp từ một ca lây sang nhiều ca khác. Còn chủng virus ở Hải Dương được xác định là biến chủng ở Anh.
Phía Nhật Bản cũng đã thông báo ca nhiễm bệnh của nữ công nhân N.T.G (Hải Dương) là chủng ở Anh và ngày 1/2, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh chính thức thông báo giải được trình tự gene của bệnh nhân liên quan đến Hải Dương là chủng biến đổi của Anh.
Chủng biến đổi này có khả năng bám dính ở tế bào người rất mạnh, tốc độ lây nhiễm tăng 70% so với chủng cũ đồng thời chu kỳ lây truyền rút ngắn chỉ còn 2-3 ngày so với 5 ngày như trước đây.
Như vậy, chúng ta đang phải chiến đấu với kẻ thù nguy hiểm hơn rất nhiều so với trước đây. Bởi vậy, chúng ta phải chuyển phương án thành tốc độ, tốc độ và tốc độ để chiến đấu với kẻ thù.
[Sáng 4/2, ghi nhận thêm 37 ca mắc COVID-19 tại Hải Dương]
Chúng ta phải "đi" nhanh hơn virus. Vì vậy, tất cả mọi người đều đang làm việc vô cùng khẩn trương thâu đêm suốt sáng chạy đua với thời gian để thắng được chu trình của virus.
- Sau khi nắm bắt được tình hình về chủng mới này, ông đã có những gợi ý gì cho Hải Dương trong vấn đề truy vết, nhanh chóng khoanh vùng cách ly?
Phó giáo sư Trần Như Dương: Truy vết là một trong những điều sống còn bởi nhờ truy vết mới có thể phát hiện ra và cách ly ngay lập tức. Trong đó việc truy vết bao gồm: Tốc độ truy vết, tốc độ khoanh vùng, tốc độ xét nghiệm để chiến thắng lại tốc độ lây lan của virus.
Ở đây chúng ta sắp xếp các đội truy vết không kể ngày đêm, ra danh sách chuyển ngay xuống địa phương để tổ chức cách ly bất kể vào thời gian nào. Các thông tin được chuyển đi là theo tiến độ chứ không phải theo sự hoàn thành, được đến đâu chuyển đi đến đấy.
- Được biết ông là tác giả của cuốn Sổ tay truy vết. Trong đợt dịch lần này, cuốn Sổ tay truy vết đã đóng vai trò quan trọng thế nào?
Phó giáo sư Trần Như Dương: Hướng dẫn trong Sổ tay truy vết cực kỳ quan trọng. Trước đó, trên thế giới chưa nước nào có nên chúng ta cũng không hề có kinh nghiệm trong việc này. Lúc đầu chúng ta cũng phải lần mò, nhưng sau chiến dịch Sơn Lôi (Vĩnh Phúc) lập tức Phó Thủ tướng Võ Đức Đam và Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long yêu cầu phải tổng hợp thông tin để đưa ra Sổ tay hướng dẫn truy vết.
Có hướng dẫn truy vết một cách bài bản mới có thể truy vết nhanh, triệt để, không được bỏ sót. Nếu truy vết theo cách cổ điển sẽ bỏ sót rất nhiều. Chính kinh nghiệm từ Sơn Lôi, Hạ Lôi đã giúp tôi cho ra đời cuốn sổ tay này.
Cuốn sổ tay được phát hành trên toàn quốc, tập huấn đến từng phường, xã. Nhờ cuốn Sổ tay truy vết bài bản ngắn gọn, dễ hiểu, cầm tay chỉ việc nên từ cán bộ xã, thôn cho đến huyện, tỉnh hay Trung ương đều nắm rõ được phải làm gì. Chỉ 5 bước vô cùng dễ hiểu, dễ làm. Nhờ có nó, việc truy vết được hoạt động một cách trơn tru, bài bản, giúp chúng ta yên tâm trong việc truy vết.
Từ những kinh nghiệm thực tiễn, chúng ta lại tiếp tục hoàn thiện bổ sung cho cuốn sổ. Thực tiễn đến đâu, tổng kết được bao nhiêu là đưa vào ngay áp dụng cho "chiến trường." Tôi nghĩ sẽ tiếp tục còn sửa đổi bổ sung bởi lẽ kinh nghiệm đi từ thực tiễn và thực tiễn sẽ chỉ ra những điều nhỏ nhất, không ai có thể dạy ai được.
Những kinh nghiệm thực tiễn được tổng kết trong Sổ tay truy vết được áp dụng một cách vô cùng hiệu quả cho các đợt chống dịch trên cả nước nói chung và đợt dịch ở Hải Dương nói riêng.
- Câu nói “đi từng ngõ, gõ từng nhà” đã trở thành phương châm về giám sát, khoanh vùng, dập dịch. Ông có thể chia sẻ hoàn cảnh nảy sinh phương châm này không?
Phó giáo sư Trần Như Dương: Năm 2007-2008, có một ổ dịch tả xảy ra Chúc Sơn (Chương Mỹ- Hà Nội), tôi được cử tới để xử lý ổ dịch này. Dịch tả lây lan rất mạnh, việc yêu cầu người dân giữ gìn vệ sinh, rửa tay bằng xà phòng, ăn chín uống sôi và đặc biệt phải uống kháng sinh dự phòng rất quan trọng. Tuy nhiên, cán bộ y tế cũng không chắc rằng phát thuốc kháng sinh xong người dân có uống hay không? Vì thế, chúng tôi đề nghị thành lập những tổ đi từng ngõ, gõ từng nhà.
Trong buổi tập huấn cho nhân viên y tế, tự dưng trong đầu tôi nảy ra câu nói đó, cũng không nhớ là nghe của ai hay học được ở đâu và chỉ đạo mọi người rằng: “Phải đi từng ngõ, gõ từng nhà để xem người dân có uống không? Phải chứng kiến cảnh người dân uống thuốc, bởi việc uống kháng sinh dự phòng rất quan trọng trong việc chống dịch tả.”
- Xin trân trọng cảm ơn phó giáo sư!./.