Ung thư vú là bệnh phổ biến hàng đầu ở nữ giới. Tại Việt Nam, mỗi năm Việt Nam có hơn 24.500 trường hợp mắc mới ung thư vú và 10.000 ca tử vong, đây là con số đáng lo ngại. Đặc biệt, độ tuổi phụ nữ Việt Nam mắc ung thư vú có xu hướng ngày càng trẻ hóa.
Đây là thông tin được đưa ra tại Buổi họp sơ kết 3 năm Đề án "Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến trong điều trị ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020-2025," do Tổng Hội Y học Việt Nam và Roche Pharma Việt Nam tổ chức ngày 5/3, tại Hà Nội.
Bệnh nhân được chẩn đoán sớm tăng lên 75%
Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) Nguyễn Trọng Khoa, ung thư vú là bệnh có tiên lượng tốt, nếu được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn sớm. Nghiên cứu ở các nước châu Á đã cho thấy tỷ lệ sống thêm 5 năm trong khoảng từ 56-87%. Ở Việt Nam, bệnh nhân ung thư vú được chẩn đoán sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm có thể lên đến 90%, thậm chí một nghiên cứu gần đây trên nhóm phụ nữ dưới 35 tuổi đã chỉ ra tỷ lệ sống thêm toàn bộ 10 năm ở giai đoạn sớm là trên 80%. Trong những năm qua Việt Nam ghi nhận tỷ lệ người bệnh ung thư vú được chẩn đoán sớm thay đổi ngoạn mục từ dưới 30% lên 75% - theo số liệu từ Bệnh viện K.
Bệnh viện K và Bệnh viện Đại học Nagoya hợp tác nghiên cứu về ung thư
Các chuyên gia Nhật Bản cùng êkip ngoại khoa Bệnh viện K đã cùng trao đổi và hội chẩn các ca bệnh ung thư dạ dày, đại trực tràng, thực quản, gan, thực quản...
“Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều điểm cần tiếp tục cải nhiện như nhiều năm trở lại đây, độ tuổi phụ nữ Việt Nam mắc ung thư vú có xu hướng ngày càng trẻ hóa. Do nhiều nguyên nhân, vẫn còn một số phụ nữ không đi khám sàng lọc định kỳ để phát hiện sớm nên nhiều bệnh nhân tới bệnh viện khi bệnh đã chuyển sang giai đoạn muộn làm cho việc điều trị gặp nhiều khó khăn,” ông Khoa phân tích.
Bên cạnh đó, ngày càng nhiều liệu pháp điều trị ung thư tiên tiến được phát minh nhưng nhiều người bệnh chưa tiếp cận được do nhiều yếu tố như thuốc chưa có tại Việt Nam hoặc chưa được chi trả bảo hiểm. Vì vậy, Bộ Y tế ủng hộ các đề án hướng tới giải quyết các vấn đề chuyên biệt và toàn diện cho bệnh lý ung thư như đề án trên.
Ông Lê Văn Phúc - Trưởng Ban Thực hiện Chính sách Bảo hiểm Y tế (Bảo hiểm Xã hội Việt Nam) cho hay tính đến năm 2023, tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm Y tế đạt 93,35% (vượt 0,15% so với yêu cầu của Chính phủ) tiệm cận mục tiêu Bảo hiểm Y tế toàn dân. Quỹ Bảo hiểm Y tế cùng với các chính sách về tài chính y tế khác đã góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ y tế, giúp người dân được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Ông Phúc cho hay những người mắc bệnh ung thư có chi phí điều trị rất lớn. Theo thống kê mới nhất của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, chi phí cho điều trị ung thư mỗi năm khoảng hơn 5.000 tỷ đồng, chiếm 12,8% thuốc Bảo hiểm Y tế dành cho điều trị ung thư.
Vì vậy, Đề án thực hiện các nghiên cứu về tình hình ung thư, xây dựng các tiêu chí để triển khai việc ghi nhận bệnh ung thư nói chung và bệnh ung thư vú nói riêng tại các cơ sở điều trị ung thư trên toàn quốc với nhiều giá trị thực tiễn. Bởi từ các nghiên cứu cho số liệu dịch tễ có giá trị về bệnh ung thư, giúp cho các nhà quản lý có được cái nhìn tổng thể về căn bệnh này và từ đó có thể đưa ra các chính sách phù hợp, giúp bệnh nhân ung thư được chẩn đoán và phát hiện bệnh sớm, tiếp cận với điều trị chuẩn, giảm gánh nặng cả về bệnh tật và chi phí cho quỹ Bảo hiểm Y tế cũng như cho bản thân gia đình người bệnh.
Tăng khả năng tiếp cận liệu pháp điều trị tiên tiến
Đề án “Tăng cường tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến cho người bệnh ung thư vú nguy cơ cao giai đoạn 2020 - 2025” mang tầm chiến lược, chuyên biệt cho ung thư vú lần đầu tiên được triển khai ở các bệnh viện lớn trên cả nước, với sự chung tay của nhiều cơ quan chức năng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều trị, tăng cường khả năng tiếp cận liệu pháp điều trị tiên tiến cho bệnh nhân ung thư vú.
Phó giáo sư Nguyễn Thị Xuyên - Chủ tịch Tổng Hội Y học Việt Nam cho biết đây là Đề án đầu tiên tại Việt Nam dành riêng cho bệnh ung thư vú với quy mô và số lượng đối tác lớn. Đề án đã đạt được nhiều kết quả ở cả bốn mục tiêu.
Sau 3 năm triển khai, Đề án đã đạt được một số kết quả tích cực trong cải thiện công tác chẩn đoán, điều trị và quản lý ung thư vú tại Việt Nam.
Đề án cũng đã tăng cường năng lực chẩn đoán và điều trị tại 5 bệnh viện thuộc Đề án; tối ưu hóa dữ liệu sẵn có của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và Viện Ung thư Quốc gia nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu chẩn đoán và điều trị ung thư vú; tăng tỷ lệ tiếp cận của bệnh nhân ung thư vú có HER 2 dương tính với các liệu pháp điều trị tiên tiến. Đã có hàng trăm y bác sĩ cũng đã được tham gia các chương trình đào tạo, nâng cao chuyên môn cho điều trị đa mô thức đối với bệnh lý ung thư vú và tăng cường năng lực nghiên cứu lâm sàng tại bệnh viện…
Hai nghiên cứu “Bản đồ dịch tễ các bệnh ung thư và đánh giá chi phí của các giải pháp điều trị ung thư giai đoạn 2018-2020” và “Đặc điểm dịch tễ học và chi phí điều trị của bệnh ung thư vú tại Việt Nam” đã được hoàn thành.
Cũng trong khuôn khổ của nội dung đề án này, công ty Roche Pharma Việt Nam đã thực hiện chương trình hỗ trợ bệnh nhân ung thư vú sử dụng thuốc miễn phí. Chương trình được Bộ Y tế phê duyệt thực hiện tại 18 bệnh viện trên cả nước. Từ tháng 7/2022 đến hết tháng 12/2023, đã có 431 bệnh nhân được hỗ trợ thuốc miễn phí với tổng số tiền hỗ trợ là hơn 67 tỷ đồng./.