Bảo hiểm y tế là một trong những chính sách trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Từ 1/7/2021, sáu chính sách mới về bảo hiểm y tế có hiệu lực thi hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân khi tham gia bảo hiểm y tế.
Đó là thay đổi khái niệm hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế; bổ sung đối tượng được ngân sách Nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế; thay đổi trong danh sách người có công và thân nhân được hưởng chính sách bảo hiểm y tế; thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất; công khai giá thu dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đối với người bệnh, người đại diện hợp pháp của người bệnh; phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV được hưởng chế độ bảo hiểm y tế.
Thay đổi khái niệm hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế
Ngày 1/7, Luật Cư trú năm 2020 có hiệu lực thi hành. Luật này sửa đổi, bổ sung nội dung một số Luật khác liên quan, trong đó có Luật Bảo hiểm y tế.
Cụ thể, tại Khoản 2 Điều 38 Luật Cư trú sửa đổi Khoản 7 Điều 2 Luật Bảo hiểm y tế như sau: Hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế là những người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú tại một chỗ ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về cư trú.
Trong khi đó, Luật Bảo hiểm y tế hiện nay đang quy định hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế bao gồm toàn bộ người có tên trong Sổ hộ khẩu hoặc Sổ tạm trú. Như vậy, theo quy định mới, những người thuộc diện tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình phải là những người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú tại một chỗ ở hợp pháp, thay vì cùng Sổ hộ khẩu hoặc Sổ tạm trú như trước đây.
Sở dĩ có sự điều chỉnh như trên là do Luật Cư trú năm 2020 quy định, từ ngày 01/01/2023, chính thức bãi bỏ Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, thay bằng việc quản lý trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đồng thời, từ ngày 1/7/2021, cơ quan đăng ký cư trú cũng sẽ không cấp mới, cấp lại Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú mà thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin của công dân trên Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Kể từ ngày 1/7, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 02/2020/UBTVQH14 chính thức có hiệu lực. Theo Pháp lệnh mới, “vợ hoặc chồng liệt sỹ lấy chồng hoặc vợ khác mà nuôi con liệt sỹ đến tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc cha đẻ, mẹ đẻ liệt sĩ khi còn sống hoặc vì hoạt động cách mạng mà không có điều kiện chăm sóc cha đẻ, mẹ đẻ liệt sĩ khi còn sống” sẽ được ngân sách Nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế, trước đây không có quy định này.
Thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất
Thanh toán theo định suất là phương thức thanh toán giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội và cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo mức phí được xác định trước theo phạm vi dịch vụ cho một đầu thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng dịch vụ y tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Vừa qua, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 04/2021/TT-BYT hướng dẫn thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất. Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2021. Theo đó, Thông tư xác định, Quỹ định suất là số tiền được xác định trước, giao cho cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế để khám, chữa bệnh ngoại trú cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế trong phạm vi định suất, trong khoảng thời gian nhất định.
Tại các cơ sở y tế từ tuyến huyện trở xuống sẽ áp dụng phương thức thanh toán theo định suất đối với toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh ngoại trú trong phạm vi hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế.
Tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh, tuyến Trung ương sẽ áp dụng tại các cơ sở có ký hợp đồng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chỉ áp dụng thanh toán theo định suất đối với phần chi phí khám, chữa bệnh ngoại trú của người đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu phát sinh tại chính cơ sở khám, chữa bệnh ban đầu đó.
[Những dấu ấn sau 6 năm triển khai thực hiện Luật bảo hiểm y tế sửa đổi]
Tuy nhiên, phạm vi định suất không bao gồm các chi phí khám, chữa bệnh của các đối tượng có mã thẻ quân nhân (QN), cơ yếu (CY), công an (CA); chi phí vận chuyển người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế; toàn bộ chi phí của lần khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế có sử dụng dịch vụ kỹ thuật thận nhân tạo chu kỳ hoặc dịch vụ kỹ thuật lọc màng bụng hoặc dịch lọc màng bụng, sử dụng thuốc chống ung thư hoặc dịch vụ can thiệp điều trị bệnh ung thư đối với người bệnh được chẩn đoán bệnh ung thư gồm các mã chẩn đoán từ C00 đến 297 và các mã chẩn đoán từ D00 đến D09 thuộc bộ mã Phân loại bệnh quốc tế lần thứ X (ICD-10).
Phạm vi định suất cũng không bao gồm toàn bộ chi phí của lần khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế có sử dụng thuốc điều trị Hemophilia hoặc máu hoặc chế phẩm của máu đối với người bệnh được chẩn đoán bệnh Hemophilia gồm các mã D60, D67, D68 thuộc bộ mã ICD-10; thuốc chống thải ghép đối với người bệnh ghép tạng; thuốc điều trị viêm gan C của người bệnh bị bệnh viên gan C; thuốc kháng HIV hoặc dịch vụ xét nghiệm tải lượng HIV của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế được chẩn đoán bệnh HIV.
Công khai giá thu dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đối với người bệnh
Một trong những điểm mới nữa trong chính sách bảo hiểm y tế, đó là công khai giá thu dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đối với người bệnh, người đại diện hợp pháp của người bệnh.
Đây là nội dung được nêu tại Thông tư số 05/2021/TT-BYT về quy định về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ sở khám, chữa bệnh bệnh công lập. Trong đó có quy định, cơ sở khám, chữa bệnh phải thông tin kịp thời và công khai với người bệnh và người đại diện hợp pháp của người bệnh giá thu dịch vụ khám, chữa bệnh bao gồm giá thu dịch vụ khám, chữa bệnh đối với người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, giá thu dịch vụ khám, chữa bệnh không theo yêu cầu đối với người bệnh không có thẻ bảo hiểm y tế; giá dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu của người bệnh; giá các loại dịch vụ khác tại đơn vị.
Ngoài ra, còn quy định cơ sở y tế phải công khai các chế độ miễn, giảm giá dịch vụ khám, chữa bệnh và thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, thanh toán giá và chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.
Có 3 hình thức công khai thông tin, đó là niêm yết công khai, chạy thông tin trên băng thông tin điện tử các văn bản, bản vẽ, sơ đồ chỉ dẫn, dấu chỉ đường đến các khu vực, khoa, phòng và đơn vị trực thuộc trong đơn vị; các bản nội quy, quy định, giá các loại dịch vụ khám, chữa bệnh và giá các loại dịch vụ phục vụ người bệnh tại các địa điểm thuận lợi có nhiều người bệnh qua lại. Việc niêm yết công khai phải thường xuyên, liên tục và kịp thời.
Bên cạnh đó, cơ sở y tế có thể tổ chức thông tin, truyền thông, tư vấn về chế độ chính sách, những vấn đề có liên quan đến việc khám, chữa bệnh kể từ khi người bệnh mới đến phòng khám bệnh, phòng cấp cứu, buồng bệnh; thông báo trực tiếp với người bệnh, người đại diện hợp pháp của người bệnh; tổ chức sinh hoạt hội đồng người bệnh của khoa, phòng và đơn vị.
Phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV được hưởng chế độ bảo hiểm y tế
Đây là nội dung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), có hiệu lực từ ngày 1/7/2021.
Theo Luật này, phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV theo chỉ định chuyên môn được quỹ bảo hiểm y tế, ngân sách nhà nước chi trả chi phí xét nghiệm theo hướng, quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho người có thẻ bảo hiểm y tế theo mức hưởng quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; ngân sách Nhà nước chi trả phần chi phí quỹ bảo hiểm y tế không chi trả nêu trên và chi trả cho người không có thẻ bảo hiểm y tế theo mức giá dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Tuy nhiên, từ trước ngày 1/7/2021, quỹ bảo hiểm y tế đã thực hiện thanh toán chi phí xét nghiệm HIV trong khám, chữa bệnh đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai và sinh con theo yêu cầu chuyên môn theo quy định tại Thông tư số 27/2018/TT-BYT của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh liên quan đến HIV/AIDS. Quy định này đã được luật hóa tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người./.