"Hạ tầng giao thông chậm phát triển, không đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và con người hàng chục năm qua đang là cản trở lớn nhất cho phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh."
Đây là chia sẻ của ông Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về những vướng mắc trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ trong phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Do đó, việc tăng tốc phát triển hạ tầng giao thông kết nối giữa Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh bằng tăng vốn đầu tư từ ngân sách cùng với tăng cường vốn xã hội hóa là mục tiêu cần thúc đẩy nhanh trong thời gian tới.
Rào cản lớn
Chia sẻ các nguyên nhân dẫn đến hạ tầng giao thông của Đồng bằng sông Cửu Long còn chậm phát triển, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, do nhận thức về vai trò của Đồng bằng sông Cửu Long đối với phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh chưa đầy đủ nên việc quy hoạch và triển khai hạ tầng giao thông chưa đồng bộ; thiếu phối hợp và chưa tập trung vào các dự án trọng điểm.
Theo ông Nguyễn Thiện Nhân, Thành phố Hồ Chí Minh lâu nay được coi là thuộc Đông Nam bộ nên khi bàn về phát triển kinh tế-xã hội với giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì không có Thành phố Hồ Chí Minh.
Thực tế cho thấy, về quan hệ kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh với Đồng bằng sông Cửu Long còn lớn hơn với các tỉnh Đông Nam bộ. Quy mô kinh tế (GRDP) của các tỉnh khu vực này lớn gấp 1,8 lần của Đông Nam Bộ. Quy mô dân số là 19,6 triệu người, gấp 2,3 lần Đông Nam Bộ. Diện tích Đồng bằng sông Cửu Long là 40.810km2, gấp 1,9 lần Đông Nam bộ. Cứ 5 năm, dân số Thành phố Hồ Chí Minh tăng 1 triệu người mà đa số là từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Chính lực lượng lao động này đã đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nói một cách khác, về tiềm lực kinh tế, dân số, diện tích, sức mua của Đồng bằng sông Cửu Long gấp gần 2 lần vùng Đông Nam bộ và về mặt tương tác phát triển kinh tế-xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh cần được xem là vừa thuộc Tây Nam Bộ và vừa thuộc Đông Nam Bộ.
Hai nguyên nhân còn lại, theo Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân, đó là đầu tư từ ngân sách không tương xứng với phát triển kinh tế của Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Quy mô kinh tế của Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 42% cả nước, song đầu tư cho giao thông thời kỳ 2011-2015 chỉ chiếm 20% đầu tư cả nước, còn thời kỳ 2016-2020 chỉ chiếm khoảng 26% đầu tư cả nước. Tiếp đó là mức độ xã hội hóa cho đầu tư hạ tầng giao thông ở Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh rất thấp, chỉ chiếm khoảng 4% tổng mức đầu tư, còn lại 96% tổng đầu tư là từ ngân sách.
Tăng tốc phát triển
Từ thực tế của việc hạ tầng giao thông Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh chậm phát triển, để hỗ trợ phát triển bền vững các vùng cũng như thành phố, Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân cho hay, đầu tiên phải tăng tổng đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông của Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh từ 26% tổng đầu tư của cả nước lên khoảng 35% trong 10 năm tới (2020-2030).
Song song đó, sử dụng một phần ngân sách Thành phố Hồ Chí Minh nộp về Trung ương để đầu tư cho phát triển giao thông Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Thiện Nhân phân tích hiện nay, hàng năm Thành phố Hồ Chí Minh nộp 80% tổng thu ngân sách về Trung ương. Do đó, có thể dành khoảng 20% trong số này để đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông của Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm (2020-2030), còn 60% nộp về Trung ương. Việc trích lập tỷ lệ 20% này phải được tách riêng trước khi hòa chung vào nguồn ngân sách quốc gia.
Về giải pháp tăng vốn xã hội hóa cho phát triển hạ tầng giao thông Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh, theo ông Nguyễn Thiện Nhân, hiện nay, nợ công Chính phủ đang ở mức khoảng 62% GDP. Mức cho phép đụng trần còn khoảng 3% GDP. Như vậy, nếu phát hành trái phiếu để dành riêng cho phát triển hạ tầng giao thông với quy mô khoảng 2% GDP thì sẽ có thêm khoảng 100.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 4,5 tỷ USD). Phần trái phiếu Chính phủ này chỉ phát hành cho người mua trong nước, không phát hành cho người nước ngoài, do đó không làm tăng nợ nước ngoài.
Với các dự án cụ thể, ông Nguyễn Thiện Nhân đề xuất tổng vốn đầu tư hạ tầng giao thông Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh cần tập trung vào 9 công trình có tác dụng kết nối giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam bộ để làm tăng hiệu quả sớm của các công trình vùng là 2 công trình vành đai 3 và 4 của Thành phố Hồ Chí Minh; 3 công trình kết nối dọc Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh (cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Cần Thơ-Cà Mau, Quốc lộ 60 và Quốc lộ N2) và 4 công trình kết nối ngang Đồng bằng sông Cửu Long (Quốc lộ 62, 30, 91 và 80 - kết nối các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với Campuchia).
Đây là 9 công trình giao thông cần được ưu tiên thực hiện đồng bộ trong giai đoạn 2020-2030 để hình thành 2 đường vành đai, 3 đường kết nối dọc, 4 đường kết nối ngang ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo ông Nguyễn Thiện Nhân, việc xây dựng nhiều đường cao tốc, quốc lộ đòi hỏi lượng cát rất lớn và đây là nguồn mà Đồng bằng sông Cửu Long thiếu để xây nhà ở và các công trình công cộng, dân dụng khác.
Ông Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều nhà máy nhiệt điện than, mỗi năm thải hàng chục triệu tấn xỉ than và bụi than. Bên cạnh đó, hiện cũng có nhiều phương pháp để biến xỉ than và bụi than thành vật liệu xây dựng. Vì vậy, Chính phủ cần công bố rộng rãi các công nghệ này và tiêu chuẩn vật liệu xây dựng làm từ xỉ than vào bụi than, điều này sẽ vừa giảm ô nhiễm môi trường quy mô rất lớn, vừa giảm chi phí cho xây dựng đường giao thông và bảo vệ đất, sông của Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh khỏi sạt lở do khai thác cát gây ra.
Cùng với đó, ông Nguyễn Thiện Nhân đề xuất, cần kiên quyết đấu tranh chấm dứt nạn khai thác cát trái phép, không không phép đang ngày đêm gây sạt lở bờ sông, hủy hoại tài sản, đe dọa tính mạng của người dân Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Mặt khác, các ngành chức năng hỗ trợ các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long có kế hoạch giảm khai thác nước ngầm, tiến tới chấm dứt khai thác nước ngầm trước năm 2030, một nguyên nhân cơ bản của việc sụt mặt đất với tốc độ 1-3 cm/năm như hiện nay./.